TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG ANH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 123/2021/HSST NGÀY 05/07/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP VŨ KHÍ QUÂN DỤNG
Trong các ngày 2 và 5/7/ 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 124/2021/HSST ngày 14/6/2021 đối với bị cáo:
Họ và tên: Lê Cường Q, sinh năm: 1972; Đăng ký nhân khẩu thường trú: Thôn Dục N, xã Việt H, Đ, Hà Nội. Nơi cư trú: tổ 37 thị trấn Đ, huyện Đ, Thành phố Hà Nội ; Nghề nghiệp: thợ sửa chữa điện tử ; Văn hóa: 12/12; Quốc tịch: Việt Nam;
Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Họ tên bố : Lê Văn H ( đã chết); Họ tên mẹ: Nguyễn Thị T; Có vợ : Cao Thị X ; có 3 con lớn sinh năm 1995, năm 2003, nhỏ nhất sinh năm 2008.
Lịch sử bản thân :
- Ngày 29/10/2004, Tòa án nhân dân huyện Đ, thành phố Hà Nội xử phạt 30 tháng tù về tội Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức. Ra trại ngày 29/8/2006. Kết quả xác minh thi hành án xác định không tìm thấy thông tin liên quan đến việc thi hành án các quyết định khác của bản án. (Án tích đã xóa) - Năm 2010, Công an thị trấn Đ xử phạt hành chính về hành vi Đánh bạc.
Bị bắt tạm giữ từ ngày 15/3/2021, tạm giam từ ngày 21/3/2021 đến nay. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 1- Công an Thành phố Hà Nội.
Có mặt tại phiên tòa.
NHẬN THẤY
Theo Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, Lê Cường Q bị truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Năm 2011 Lê Cường Q vay Ngân hàng Thương mại cổ phần V (V) số tiền 580.000.000 đồng, thế chấp 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà Nguyễn Thị T (SN: 1946; mẻ đẻ của Q). Đến năm 2020, Ngân hàng thông báo số nợ Q phải trả khoảng 2.700.000.000 đồng. Q kể việc nợ ngân hàng cho chị Nguyễn Thị D (SN:1980, nơi cư trú: Tổ 35 thị trấn Đ, huyện Đ, thành phố Hà Nội). Chị D giới thiệu anh Trần Văn H (SN: 1971; HKTT: Tổ 5 (Tổ 12 cũ) Thị trấn Sóc S, huyện Sóc S, thành phố Hà Nội) là người có thể giúp Q lo việc trả nợ. Q trực tiếp giao dịch và chuyển cho anh H số tiền 240.000.000 đồng nhưng không giải quyết được việc. Sau đó H bảo Q liên hệ nhờ một người tên Lê Hữu T (SN: 1996; HKTT: Cẩm V, Hoằng T, Hoằng H, Thanh Hóa; Chỗ ở: phòng 1416 và 2701, nhà V3, chung cư Home City, 177 Trung K, Yên H, Cầu G, Hà Nội) để T giúp Q tiếp tục giải quyết việc. Tổng số tiền Q chuyển cho H và T để lo việc trả nợ ngân hàng là 750.000.000 đồng nhưng đến nay vẫn không giải quyết được việc. Q nghi ngờ chị D câu kết với H và T để lừa đảo chiếm đoạt tiền của Q.
Khoảng 16 giờ 30’ ngày 14/3/2021, chị D đến nhà Q gặp chị Cao Thị X (SN: 1974, vợ của Q) nói chuyện thì gặp Q. Quá trình nói chuyện giữa Q và chị D xảy ra mâu thuẫn, Q nói: ‘‘anh em tao bảo mày lừa tao, tao sẽ viết đơn kiện mày’’. Chị D nói: ‘‘tôi nghe câu này nhiều rồi, ông muốn làm gì thì làm’’, Q bực tức lao vào dùng hai tay bóp cổ chị D và nói: ‘‘tối nay thằng cháu tao lên, mày mà nói thế nó sẽ giết mày’’. Chị D định bỏ về thì Q chạy vào trong nhà, lấy trong tủ lạnh 01 khẩu súng (dạng súng K54) đựng trong 01 túi vải màu đỏ đi về phía chị D, tay trái Q bóp cổ chị D, tay phải cầm nòng súng giơ phần báng súng dí vào đầu chị D chửi: ‘‘bố mày sẽ cho mày biết bố Q là ai’’. Chị X thấy vậy lao đến can ngăn, Q dừng lại và cất súng. Sau đó chị D đến Công an huyện Đ trình báo sự việc.
Vật chứng tạm giữ của Lê Cường Q tự nguyện giao nộp:
- 01 khẩu súng bằng kim loại (dạng súng K54) dài khoảng 19,4cm, nòng súng dài 11,6cm.
- 02 hộp tiếp đạn bằng kim loại màu đen KT (11x4x2)cm và 08 viên đạn bằng kim loại màu vàng đầu đạn màu vàng cao 3,3cm; đường kính đáy 0,7mm.
- 01 khẩu súng bằng kim loại (dạng súng hơi) dài khoảng 1,3m, nòng súng dài 73cm, báng súng bằng gỗ, kích thước (13x30x4,5)cm, thân súng có dòng chữ “Modell 310”.
- 01 con đao bằng kim loại màu trắng, tổng chiều dài 58,5cm, bản đao rộng 5,3cm, dày 0,3cm, chuôi đao bằng gỗ kích thước (18,5x4,5x2,5)cm.
- 01 túi vải màu hồng đỏ có ghi chữ Frisomum - 01 túi bóng nilon màu đỏ.
- 01 điện thoại di động Iphone 7 Plus màu đen, lắp sim thuê bao số: 0975599196.
Tại Bản Kết luận giám định số 2005/C09-P3 ngày 19/3/2021 của Viện khoa học hình sự - Bộ Công an kết luận:
- Khẩu súng dài 20 cm gửi giám định là súng ngắn K54, bắn đạn cỡ 7,62 x 25mm, thuộc vũ khí quân dụng. Hiện tại súng còn sử dụng để bắn được, bên trong súng không có đạn. Khi sử dụng khẩu súng này bắn đạn vào cơ thể người gây chết hoặc bị thương.
- Khẩu súng dài 103 cm gửi giám định là súng hơi bắn đạn bi cỡ 4,4 mm, thuộc súng săn, không phải vũ khí quân dụng. Hiện tại súng còn sử dụng để bắn được, bên trong súng không có đạn.
- 08 viên đạn gửi giám định là đạn quân dụng, cỡ 7,62 x 25 mm, sử dụng cho các loại súng quân dụng như: K54, PPSh-41, PPS-43,... Hiện tại 08 viên đạn này đã thực hiện bắn thực nghiệm nhiều lần nhưng đạn không nổ.
- 02 hộp tiếp đạn gửi giám định là 02 hộp tiếp đạn của loại súng quân dụng K54.
Tại Bản Kết luận giám định số 3732/C09-P2 ngày 26/5/2021 của Viện khoa học hình sự - Bộ Công an kết luận: Số súng nguyên thủy của khẩu súng gửi đến giám định là: 14042?8366. Tại vị trí dấu hỏi chấm (?) còn một ký tự nữa nhưng không xác định được là ký tự gì.
Tại cơ quan điều tra, Lê Cường Q khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với tài liệu điều tra thu thập được và khai: Khoảng cuối tháng 01/2021, Quốc nhặt được 01 túi vải màu đỏ bên trong có 01 khẩu súng (dạng súng K54), 02 hộp tiếp đạn và 08 viên đạn ở trên đường cạnh khu vực kho để xe ô tô thuộc tổ 37, thị trấn Đ, Đ, Hà Nội. Sau đó Q cất giấu túi vải đựng súng, hộp tiếp đạn và đạn trong tủ lạnh cũ đối diện cầu thang tầng 1 nhà Q (việc Q cất giấu súng chị Cao Thị X – là vợ Q không biết). Đầu năm 2020, Q được một người bạn tên là Mộc ở Sóc S, Hà Nội (không xác định được tên tuổi, địa chỉ cụ thể) cho 01 khẩu súng tự chế, báng bằng gỗ (dạng súng hơi), Q treo khẩu súng hơi trên chiếc loa đài gần khu vực cửa ra vào phòng bếp nhà Q. Đối với 01 con đao giao nộp cho Cơ quan điều tra, Q khai vào khoảng tháng 6/2020 trong một lần đi chơi ở Lạng Sơn đã mua của một người bán hàng ven đường mục đích về để chơi phong thủy.
Đối với hành vi tàng trữ 01 khẩu súng bằng kim loại (dạng súng hơi) dài khoảng 1,3m, nòng súng dài 73cm, báng súng bằng gỗ, kích thước (13x30x4,5)cm, thân súng có dòng chữ “Modell 310” và 01 con đao bằng kim loại màu trắng, tổng chiều dài 58,5cm, bản đao rộng 5,3cm, dày 0,3cm, chuôi đao bằng gỗ kích thước (18,5x4,5x2,5)cm của Lê Cường Q; căn cứ điểm c khoản 5 Điều 10 Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình; ngày 25/5/2021, Ủy ban nhân dân huyện Đ ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền đối với Lê Cường Q, mức phạt 15.000.000 đồng. Đồng thời, tịch thu khẩu súng hơi bắn đạn bi và 01 cây đao.
Đối với hành vi của Q sử dụng báng súng đe dọa chị D là xuất phát từ bực tức do nghi ngờ chị D câu kết với H và T để lừa đảo chiếm đoạt tiền của Q, không có hành vi ép chị D phải trả tiền cho Q; chị D khai báo nghĩ Q bực tực nên làm như vậy, không lo lắng về việc Q sẽ xâm hại tính mạng chị D; do đó không có dấu hiệu của hành vi Đe dọa giết người hay Chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, việc Quốc có hành vi dùng tay bóp cổ chị D, do thương tích của chị D không nghiêm trọng, chị D không đề nghị đi khám thương, không đề nghị giám định tỷ lệ thương tích, ngày 25/5/2021, Công an huyện Đ ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Q về hành vi xâm hại sức khỏe của người khác.
Đối với Trần Văn H, quá trình điều tra xác minh thể hiện H hiện tại có hộ khẩu thường trú tại địa chỉ Tổ 5 (Tổ 12 cũ) Thị trấn Sóc S, huyện Sóc S, thành phố Hà Nội nhưng gia đình đã chuyển đến sinh sống tại F1029 Chung cư Vườn Đ, Phú T, Tây H, Hà Nội từ năm 2016 không về sinh sống tại địa phương. Xác minh với Công an phường Phú T, Tây H, Hà Nội, xác định: tại Chung cư Vườn Đ, Phú T, Tây H, Hà Nội không có căn hộ 1029 chung cư Vườn đ. Đối với Lê Hữu T, làm việc với Công an phường Yên H, quận Cầu G, Hà Nội; xác định tại V3, phòng 1416 và 2701 chung cư Home City, 177 Trung K, Yên H, Cầu G, Hà Nội không có ai tên Lê Hữu T cư trú tại đây. Xác minh tại Cẩm V, Hoằng T, Hoằng H, Thanh Hóa và Công an phường Tân P, Thành phố Lai C, tỉnh Lai Châu, xác định ngày 13/01/2021 Lê Hữu T (SN: 1996, HKTT: Cẩm V, Hoằng T, Hoằng H, Thanh Hóa) đã nhập khẩu đến nhà bà Tạ Thị C (SN: 1964, HKTT: Tổ 5, phường Tân P, Thành phố Lai C, tỉnh Lai Châu). Đến khoảng tháng 8/2015, T đi đâu làm gì với ai ở đâu, gia đình bà C không biết, hiện tại Lê Hữu T không cư trú tại Tổ 5, phường Tân P, Thành phố Lai C, tỉnh Lai Châu. Vì vậy, Cơ quan điều tra tách tài liệu liên quan đến hành vi của H và T, tiếp tục xác minh điều tra, khi có căn cứ xử lý sau.
Đối với 01 chiếc điện thoại di động Iphone 7 Plus màu đen, lắp sim thuê bao số 0975599196, là điện thoại của Lê Cường Q, không liên quan đến vụ án, ngày 26/5/2021, Cơ quan điều tra Quyết định xử lý vật chứng trao trả cho chị Cao Thị X – vợ của Q (được Q ủy quyền nhận lại).
Bản cáo trạng số 123/CT-VKS ngày 9/6/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ truy tố Lê Cường Q về tội Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng theo khoản 1 Điều 304 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình. Bị cáo ăn năn hối hận về hành vi phạm tội của mình, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ sau khi tóm tắt hành vi phạm tội của bị cáo, đánh giá hành vi của bị cáo vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh và điều luật đã nêu.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Tàng trữ phương tiện gây nguy hiểm cho tính mạng con người, do nhà nước độc quyền quản lý.
Do đó bảo phải có hình phạt tương xứng để giáo dục và phòng ngừa chung. Tuy nhiên khi lượng hình cũng xem xét tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo vì đã có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; cậu ruột của bị cáo là Liệt sỹ.
Đề nghị tuyên bố Lê Cường Q phạm tội tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng Đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 304, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 Xử phạt: Lê Cường Q từ 18 tháng đến 24 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ -Xử lý vật chứng.
Tịch thu tiêu hủy:
- 01 túi vải màu hồng đỏ có ghi chữ Frisomum - 01 túi bóng nilon màu đỏ.
Giao Ban chỉ huy quân sự huyện Đ để xử lý theo thẩm quyền đối với khẩu súng K54, 02 hộp tiếp đạn và 8 viên đạn để xử lý theo thẩm quyền.
Về hình phạt bổ sung: không áp dụng Căn cứ các tài liệu chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét toàn diện ý kiến của Kiểm sát viên, Bị cáo Về tố tụng:
XÉT THẤY
Những chứng cứ tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thu thập có trong hồ sơ đã đảm bảo tính hợp pháp theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đảm bảo tính hợp pháp theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
Về nội dung vụ án:
Lời khai của bị cáo Q tạii phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ.
Từ đó Hội đồng xét xử cã đủ căn cứ để kết luận:
Khoảng 16 giờ 30’ ngày 14/3/2021, chị D đến nhà Q gặp chị Cao Thị X (SN:
1974, vợ của Q) nói chuyện thì gặp Q. Quá trình nói chuyện giữa Q và chị D xảy ra mâu thuẫn, Q nói: ‘‘anh em tao bảo mày lừa tao, tao sẽ viết đơn kiện mày’’. Chị D nói: ‘‘tôi nghe câu này nhiều rồi, ông muốn làm gì thì làm’’, Q bực tức lao vào dùng hai tay bóp cổ chị D và nói: ‘‘tối nay thằng cháu tao lên, mày mà nói thế nó sẽ giết mày’’. Chị D định bỏ về thì Q chạy vào trong nhà, lấy trong tủ lạnh 01 khẩu súng (dạng súng K54) đựng trong 01 túi vải màu đỏ đi về phía chị D, tay trái Q bóp cổ chị D, tay phải cầm nòng súng giơ phần báng súng dí vào đầu chị D chửi: ‘‘bố mày sẽ cho mày biết bố Q là ai’’. Chị X thấy vậy lao đến can ngăn, Q dừng lại và cất súng. Sau đó chị D đến Công an huyện Đ trình báo sự việc.
Vật chứng tạm giữ của Lê Cường Q tự nguyện giao nộp:
- 01 khẩu súng bằng kim loại (dạng súng K54) dài khoảng 19,4cm, nòng súng dài 11,6cm.
- 02 hộp tiếp đạn bằng kim loại màu đen KT (11x4x2)cm và 08 viên đạn bằng kim loại màu vàng đầu đạn màu vàng cao 3,3cm; đường kính đáy 0,7mm.
- 01 khẩu súng bằng kim loại (dạng súng hơi) dài khoảng 1,3m, nòng súng dài 73cm, báng súng bằng gỗ, kích thước (13x30x4,5)cm, thân súng có dòng chữ “Modell 310”.
- 01 con đao bằng kim loại màu trắng, tổng chiều dài 58,5cm, bản đao rộng 5,3cm, dày 0,3cm, chuôi đao bằng gỗ kích thước (18,5x4,5x2,5)cm.
- 01 túi vải màu hồng đỏ có ghi chữ Frisomum - 01 túi bóng nilon màu đỏ.
- 01 điện thoại di động Iphone 7 Plus màu đen, lắp sim thuê bao số: 0975599196.
- Khẩu súng dài 20 cm gửi giám định là súng ngắn K54, bắn đạn cỡ 7,62 x 25mm, thuộc vũ khí quân dụng. Hiện tại súng còn sử dụng để bắn được, bên trong súng không có đạn. Khi sử dụng khẩu súng này bắn đạn vào cơ thể người gây chết hoặc bị thương.
- Khẩu súng dài 103 cm gửi giám định là súng hơi bắn đạn bi cỡ 4,4 mm, thuộc súng săn, không phải vũ khí quân dụng. Hiện tại súng còn sử dụng để bắn được, bên trong súng không có đạn.
- 08 viên đạn gửi giám định là đạn quân dụng, cỡ 7,62 x 25 mm, sử dụng cho các loại súng quân dụng như: K54, PPSh-41, PPS-43,... Hiện tại 08 viên đạn này đã thực hiện bắn thực nghiệm nhiều lần nhưng đạn không nổ.
- 02 hộp tiếp đạn gửi giám định là 02 hộp tiếp đạn của loại súng quân dụng K54.
Tại Bản Kết luận giám định số 3732/C09-P2 ngày 26/5/2021 của Viện khoa học hình sự - Bộ Công an kết luận:
Số súng nguyên thủy của khẩu súng gửi đến giám định là: 14042?8366. Tại vị trí dấu hỏi chấm (?) còn một ký tự nữa nhưng không xác định được là ký tự gì.
Lê Cường Q đã có hành vi tàng trữ trái phép 01 súng ngắn K54; 08 viên đạn quân dụng; 02 hộp tiếp đạn của loại súng quân dụng K54 Tội danh và hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 304 BLHS. Cáo trạng truy tố bị cáo là đúng.
Điều 304 Bộ luật Hình sự quy định:
"1. Người nào chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 07 năm” Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội.
Vì vậy cần phải áp dụng mức hình phạt tù giam đối với bị cáo để giáo dục và phòng ngừa chung Tuy nhiên khi lượng hình, Hội đồng xét xử xem xét bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; có cậu ruột là Liệt sỹ; Bị cáo có án tích nhưng coi là đã được xóa, để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.
Về vật chứng: 01 khẩu súng bằng kim loại (dạng súng hơi) dài khoảng 1,3m, nòng súng dài 73cm, báng súng bằng gỗ, kích thước (13x30x4,5)cm, thân súng có dòng chữ “Modell 310” và 01 con đao bằng kim loại màu trắng, tổng chiều dài 58,5cm, bản đao rộng 5,3cm, dày 0,3cm, chuôi đao bằng gỗ kích thước (18,5x4,5x2,5)cm của Lê Cường Q;
01 chiếc điện thoại di động Iphone 7 Plus màu đen, lắp sim thuê bao số 0975599196 thu giữ của là điện thoại của Lê Cường Q.
Cơ quan điều tra đã xử lý đúng nên không xem xét giải quyết nữa.
Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Lê Cường Q phạm tội Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng.
Áp dụng khoản 1 Điều 304, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Điều 106, Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.
Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30.12.2016 của Ủy ban thường vụ Q Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án. Luật thi hành án dân sự.
Xử phạt: Lê Cường Q 18 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ 15/3/2021.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Biện pháp tư pháp khác:
-Xử lý vật chứng: tịch thu tiêu hủy 01 túi vải màu hồng đỏ có ghi chữ Frisomum, 01 túi bóng nilon màu đỏ hiện đang lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ.Theo biên bản bàn giao vật chứng ngày 10/6/2021 giữa Công an huyện Đ và Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ.
01 khẩu súng K54 hiện có số 14042?8366 bên trong không có đạn, 02 hộp tiếp đạn và 08 viên đạn hiện đang lưu giữ tại Công an huyện Đ chuyển sang cho Ban chỉ quân sự huyện Đ, Thành phố Hà Nội để xử lý theo thẩm quyền.
Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm, có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày kháng cáo.
Bản án 123/2021/HSST ngày 05/07/2021 về tội tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng
Số hiệu: | 123/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đông Anh - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 05/07/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về