Bản án 123/2021/HS-PT ngày 08/03/2021 về giết người

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 123/2021/HS-PT NGÀY 08/03/2021 VỀ GIẾT NGƯỜI

Ngày 08 tháng 3 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 679/2020/TLPT-HS ngày 06 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo Vương Đức V do bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan kháng cáo Bản án hình sự sơ thẩm số 108/2020/HS-ST ngày 30/09/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh B.

Bị cáo có kháng cáo: Vương Đức V, sinh năm 1974 tại tỉnh B; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: Số 64C Nguyễn Văn Tiết, Khu phố Bình Hòa, phường Lái Thiêu, thành phố Thuận An, tỉnh B; Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ văn hóa (học vấn): Lớp 9/12; Dân tộc: Hoa; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Vương A và bà Trần Thị H; Có vợ: Huỳnh Ngọc Đan P (Chưa đăng ký kết hôn); Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Chưa từng bị kết án; Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/9/2019 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo:

- Luật sư Nguyễn Sa Linh – Trưởng Văn phòng luật sư Gia Linh thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (Có mặt);

- Luật sư Nguyễn Thị Thanh Tú – Văn phòng luật sư Gia Linh thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (Có mặt);

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có kháng cáo:

- Ông Vương A, sinh năm 1938 (Có mặt);

- Bà Trần Thị H, sinh năm 1943 (Có mặt);

Cùng địa chỉ 64C Nguyễn Văn Tiết, Khu phố Bình Hòa, phường Lái Thiêu, thành phố Thuận An, tỉnh B.

Ngoài ra còn có 03 người đại diện hợp pháp của người bị hại và 02 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác không kháng cáo.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Gia đình Vương Đức V và gia đình Trần Hoàng V1 là hàng xóm của nhau, có tranh chấp lối đi chung và ranh giới đất.

Khong 15 giờ ngày 16/9/2019, Vương Đức V điều khiển xe ô tô biển số 61A- 286.17 chở cha là Vương A và vợ chưa cưới là Huỳnh Ngọc Đan P đi khám bệnh, khi xe đi ngang qua nhà của Trần Hoàng V1 thì Hoàng V1 cùng cha là Trần Thanh N từ trong nhà chạy ra vừa chạy vừa chỉ tay về hướng xe ô tô nên Đức V dừng xe lại. Hoàng V1 dùng tay gõ vào kính trước bên trái xe ô tô nên Đức V bấm kính xuống thì Hoàng V1 nói “Xuống xe nói chuyện ba tao về kìa”. Do thấy Hoàng V1 đã có uống rượu bia nên ông N ôm kéo Hoàng V1 vào nhà nhưng Hoàng V1 kng đồng ý.

Đức V tiếp tục điều khiển xe ô tô chạy ra hướng đường Nguyễn Văn Tiết với tốc độ khoảng 15-20 Km/h, khi đến đoạn đường cong thì Hoàng V1 chạy từ lề bên trái vượt qua đầu xe ô tô sang lề bên phải và khom người xuống dùng tay lấy một vật dưới đất (không xác định cụ thể) rồi đứng trước đầu ô tô ném vật trên tay vào kính chắn gió phía trước xe ô tô. Lúc này, Đức V ấn ga tăng tốc đụng thẳng đầu xe vào Hoàng V1 làm Hoàng V1 té xuống đường, nằm dưới đầu xe. Đức V chạy xe thêm khoảng 10-15 mét thì dừng xe lại. Ông Trần Thanh N, Phạm Huy Cường, Võ Thanh Danh chạy đến thấy Hoàng V1 đang nằm dưới gầm xe nên đưa Hoàng V1 đến Bệnh viện Chợ Rẫy cấp cứu đến ngày 20/9/2019 tử vong.

Kết luận giám định pháp y về tử thi số 738/GĐPY ngày 25/9/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B xác định nguyên nhân Trần Hoàng V1 chết do chấn thương sọ não.

Tại Bản cáo trạng số 57/CT-VKS.P2 ngày 09/6/2020 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh B đã truy tố Vương Đức V để xét xử về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự;

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 108/2020/HS-ST ngày 30/9/2020 và Thông báo số 35/2020/TB-TA ngày 05/10/2020 sửa chữa, bổ sung bản án của Tòa án nhân dân tỉnh B đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Vương Đức V phạm tội “Giết người”.

Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; các điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Vương Đức V 12 (Mười hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 16/9/2019.

Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự và các điều 47, 48 Bộ luật hình sự; Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 01 (một) xe ô tô màu đen, loại 07 chỗ ngồi, nhãn hiệu KIA, số loại SORENTO, biển kiểm soát 61A-286.17, số khung số máy không đổi. Số khung RNYXM51A6GC077818, số máy G4KEFH721940, tình trạng đã cũ, kèm theo Kết luận giám định số 104/KLGĐ-PC09 ngày 21/4/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B, không kiểm tra được tất cả bên trong tình trạng của xe; 01 (một) Giấy chứng nhận kiểm định xe ô tô biển kiểm soát 61A-286.17;

01 (một) Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô biển kiểm soát 61A-286.17 mang tên Vương Đức V.

Trả lại cho Vương Đức V 01 (một) Giấy phép lái xe hạng A2, C mang tên Vương Đức V;

Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 12/8/2020 và ngày 28/8/2020.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự; về án phí hình sự sơ thẩm, án phí dân sự sơ thẩm; trách nhiệm do chậm thi hành án, nghĩa vụ thi hành án và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 04/10/2020, bị cáo Vương Đức V có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và không tịch thu xe ô tô để trả lại cho cha mẹ của bị cáo.

Ngày 12/10/2020, ông Vương A và bà Trần Thị H có đơn kháng cáo yêu cầu không tịch thu xe ô tô vì đây là tài sản của ông bà.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo khai nhận khi bị cáo điều khiển xe thì có 2-3 người lao ra chặn, đập xe và yêu cầu bị cáo xuống xe, bị cáo dừng xe, hé kính xuống thì nghe có người nói “sỉn hết rồi chạy đi” nên bị cáo cho xe chạy chậm về phía trước, vì trời vừa tạnh mưa không thấy rõ nên khi xe chạy khoảng 15 – 20 mét thì nghe có vật rơi mạnh xuống kính xe làm sình đất bắn tung tóe lên kính chắn gió phía trước, che khuất tầm nhìn của bị cáo làm cho bị cáo hoảng loạn nên chỉ muốn điều khiển xe đi để thoát khỏi sự bám đuổi của bị hại nhưng không may làm cho bị hại chết. Trước đó bị cáo hoàn toàn không có mâu thuẫn gì với bị hại, không cố ý giết người nên đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Luật sư Nguyễn Thị Thanh Tú đề nghị xem xét theo 02 đoạn video clip thể hiện khi xe bị cáo đang chạy thì bị hại chạy ngang qua đầu xe, đã tự đặt mình vào tình huống nguy hiểm, bị cáo chỉ muốn thoát khỏi sự bám đuổi của người bị hại nên đã không bình tĩnh, xử lý kém làm cho xe đụng vào người bị hại chết chứ bị cáo không hề có ý muốn giết người, bị cáo là người hiền lành chí thú làm ăn, không phải là đối tượng côn đồ, cũng không cố ý nên bị cáo không phạm tội theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 mà chỉ phạm tội theo quy định tại khoản 2 Điều 123 Bộ luật hình sự. Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, thật thà khai báo, ăn năn hối cải, tự nguyện bồi thường thiệt hại và trong giai đoạn phúc thẩm đã tác động gia đình nộp thêm 278.668.000 đồng là đầy đủ tiền bồi thường, phạm tội do bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của người bị hại gây ra như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại phiên tòa phúc thẩm. Tại bút lục từ 300 đến 312 thể hiện ông Vương A là người ký hợp đồng mua xe ô tô 61A-286.17 nên đề nghị không tịch thu mà hoàn trả xe ô tô cho ông Vương A. Đề nghị chấp nhận kháng cáo của bị cáo, tuyên bố bị cáo phạm tội theo khoản 2 Điều 123 và giảm hình phạt cho bị cáo; chấp nhận kháng cáo của ông Vương A, bà Trần Thị H hoàn trả xe ô tô 61A-286.17 cho ông A, bà H.

Luật sư Nguyễn Sa Linh đề nghị xem xét bị cáo phạm tội không có tính chất côn đồ vì nguyên nhân xảy ra sự việc là do bị hại tấn công, bị cáo không có mục đích, động cơ giết người và bị cáo có quá trình nhân thân tốt. Bị cáo giết người trong tình trạng tinh thần bị kích động mạnh vì người bị hại dùng tay đập vào kính xe rồi dùng vật ném vào kính xe, hành vi của bị hại tăng dần, liên tục, kéo dài làm kích động mạnh đến tinh thần của bị cáo, nên đề nghị áp dụng Án lệ số 28 và xác định bị cáo chỉ phạm tội theo quy định tại khoản 2 Điều 123 Bộ luật hình sự. Thống nhất ý kiến của Viện kiểm sát đề nghị áp dụng điểm e khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo. Như vậy bị cáo có đến 04 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự nên đề nghị áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Ông Vương A và bà Trần Thị H giữ nguyên kháng cáo xin được hoàn trả xe ô tô 61A-286.17 vì đây là tài sản của ông bà giao cho con là bị cáo đứng tên. Hiện nay ông bà đã già yếu nên cần có xe để làm phương tiện đi khám chữa bệnh.

Đại diện Viện Kiểm sát đề nghị xem xét đơn kháng cáo của bị cáo hợp lệ. Về nội dung Bản án sơ thẩm đã tuyên bố bị cáo phạm tội “Giết người” quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội. Bị cáo phạm tội một phần cũng do bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra nên đề nghị áp dụng thêm điểm e khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự đối với bị cáo. Tuy nhiên, Bản án sơ thẩm đã xử phạt mức án khởi điểm của khung hình phạt là tương xứng nên giữ nguyên hình phạt của Bản án sơ thẩm. Đối với kháng cáo của ông Vương A và bà Trần Thị H không có căn cứ nên không chấp nhận trả xe ô tô lại cho ông bà.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Đơn kháng cáo của bị cáo và đơn kháng cáo của ông Vương A, bà Trần Thị H đảm bảo hình thức và thời hạn, đủ điều kiện để giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị cáo cho rằng bị cáo không cố ý giết người mà là do bị hoảng loạn nên bị cáo cho xe chạy gây tai nạn chết người, nhưng căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, hình ảnh sự việc xảy ra trong đoạn video clip trích xuất từ camera an ninh và biên bản trích xuất dữ liệu hình ảnh số 177/BBGĐ-PC09 ngày 23/9/2019, lời khai của bị cáo (bút lục 183, 184) nhìn thấy người bị hại đang chặn đầu xe, lời khai của những người có mặt trên xe của bị cáo (bút lục 173, 174 và 178 đến 181) đều nhìn thấy khi bị hại đang ở trước đầu xe thì bị cáo vẫn cho xe chạy tới nên đã đụng vào người bị hại, cuốn người bị hại vào gầm xe một đoạn đường thì mới dừng xe lại, hậu quả làm bị hại tử vong. Từ lúc người bị hại chặn xe và bị cáo dừng xe, hạ kính xe thì bị cáo đã biết rõ có người chặn đầu xe bị cáo nhưng bị cáo vẫn tiếp tục cho xe chạy trong lúc người bị hại đang chạy theo cắt ngang từ bên trái qua bên phải phía trước đầu xe của bị cáo và khi thấy người bị hại đang ở trước đầu xe để chặn xe của mình thì bị cáo vẫn tiếp tục cho xe chạy tới. Hình ảnh trong đoạn video cho thấy khi bị hại ngồi xuống bên phải trước đầu xe vừa đứng lên thì xe tiếp tục chạy tới một đoạn thì đèn phanh xe vụt sáng rồi tắt, xe tiếp tục chạy tới thêm một đoạn nữa mới dừng hẳn. Việc tiếp tục cho xe chạy trong lúc có người đang ở phía trước đầu xe, đang cố tình dùng thân mình chặn đầu xe không cho xe chạy là tình huống rõ ràng nguy hiểm đến tính mạng con người, nhưng bị cáo vẫn bất chấp hậu quả, vẫn tiếp tục cho xe chạy tới nên đã đụng và cuốn người bị hại vào gầm xe. Sự việc diễn ra trong một khoảng thời gian, không phải là tình huống bất ngờ; đồng thời bị cáo là người có giấy phép lái xe, có ô tô riêng đã nhiều năm, thường xuyên sử dụng ô tô, nên việc bị cáo cho rằng do hoảng loạn là không phù hợp với diễn biến sự việc. Do đó, có đủ căn cứ để khẳng định bị cáo Vương Đức V phạm tội “Giết người” quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự như quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh là hoàn toàn có căn cứ pháp luật. Do đó, không có căn cứ pháp luật để chấp nhận lời bào chữa của các luật sư cho rằng bị cáo chỉ phạm tội theo quy định tại khoản 2 Điều 123 Bộ luật hình sự.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến tính mạng con người, làm ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự an toàn xã hội ở địa phương nên cần phải xử phạt nghiêm. Bị cáo biết rõ người bị hại đang ở trước đầu xe nhưng vẫn cố tình điều khiển xe chạy tới, mặc cho hậu quả xảy ra, làm cho người bị hại chết nên cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục riêng và răn đe phòng ngừa chung trong xã hội. Tuy nhiên, bị cáo phạm tội nhưng có nhiều tình tiết giảm nhẹ, đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối lỗi, sau khi xét xử sơ thẩm đã tác động gia đình bồi thường thêm 278.668.000 đồng là đầy đủ về trách nhiệm dân sự, nguyên nhân xảy ra vụ án cũng do người bị hại đã cố tình dùng thân mình ở phía trước để chặn đầu xe của bị cáo từ bên trái qua bên phải, rồi lại chặn từ bên phải qua bên trái đầu xe, hành vi đó của người bị hại là trái pháp luật và đã làm cho bị cáo bị kích động về tinh thần, nhưng không đến mức kích động mạnh như lời bào chữa của luật sư Nguyễn Sa Linh vì hành vi của bị hại chỉ tác động vào xe mà không tác động vào thân thể của những người bên trong xe ô tô, nên chấp nhận lời đề nghị của đại viện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh và lời đề nghị của các luật sư, cần áp dụng thêm điểm e khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo là phù hợp. Do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, nên chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo và đề nghị của luật sư. Xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt là thỏa đáng.

[4] Xe ô tô biển số 61A-286.17 do bị cáo đứng tên chủ sở hữu và bị cáo đã sử dụng xe này vào việc phạm tội, theo quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự thì phải tịch thu sung quỹ Nhà nước. Hợp đồng mua xe chưa phải là văn bản chứng minh chủ sở hữu xe, mà Giấy chứng nhận đăng ký xe mới là văn bản chứng minh chủ sở hữu xe. Do đó, không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị cáo, kháng cáo của ông Vương A và bà Trần Thị H yêu cầu không tịch thu mà hoàn trả xe ô tô cho ông bà.

[5] Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm;

[6] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm về trách nhiệm dân sự; về án phí hình sự sơ thẩm, án phí dân sự sơ thẩm; về trách nhiệm do chậm thi hành án; về nghĩa vụ thi hành án không có kháng cáo kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355 và điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự;

Không chấp nhận kháng cáo của ông Vương A và bà Trần Thị H; Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Vương Đức V; Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 108/2020/HS-ST ngày 30/9/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh B về phần hình phạt đối với bị cáo.

2. Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; các điểm b, e, s khoản 1 Điều 51; Điều 54 Bộ luật hình sự;

Tuyên bố bị cáo Vương Đức V phạm tội “Giết người”.

Xử phạt bị cáo Vương Đức V 09 (Chín) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 16/9/2019. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án;

Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự và các điều 47, 48 Bộ luật hình sự;

Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 (một) xe ô tô màu đen, loại 07 chỗ ngồi, nhãn hiệu KIA, số loại SORENTO, biển kiểm soát 61A-286.17, số khung số máy không đổi. Số khung RNYXM51A6GC077818, số máy G4KEFH721940, tình trạng đã cũ, kèm theo Kết luận giám định số 104/KLGĐ-PC09 ngày 21/4/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B, không kiểm tra được tất cả bên trong tình trạng của xe; 01 (một) Giấy chứng nhận kiểm định xe ô tô biển kiểm soát 61A-286.17; 01 (một) Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô biển kiểm soát 61A-286.17 mang tên Vương Đức V.

Hoàn trả cho bị cáo Vương Đức V 01 (một) Giấy phép lái xe hạng A2, C mang tên Vương Đức V;

Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 12/8/2020 và ngày 28/8/2020.

3. Bị cáo Vương Đức V không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm về trách nhiệm dân sự; về án phí hình sự sơ thẩm, án phí dân sự sơ thẩm; về trách nhiệm do chậm thi hành án; về nghĩa vụ thi hành án không có kháng cáo kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

1221
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 123/2021/HS-PT ngày 08/03/2021 về giết người

Số hiệu:123/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;