Bản án 123/2020/HNGĐ-ST ngày 21/05/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN VĂN THỜI, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 123/2020/HNGĐ-ST NGÀY 21/05/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Trong ngày 21 tháng 5 năm 2020 tại Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 289/2020/TLST-HNGĐ về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 133/2020/QĐST-HNGĐ ngày 13 tháng 5 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Bùi Văn B, sinh năm 1980. Địa chỉ: Ấp C, xã L, huyện T, tỉnh Cà Mau; có mặt.

- Bị đơn: Chị Lê Thị Kiều P, sinh năm 1981. Địa chỉ: Ấp C, xã L, huyện T, tỉnh Cà Mau; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, biên bản hòa giải và tại phiên tòa, anh Bùi Văn B trình bày:

Về hôn nhân: Anh và chị P sống chung năm 2001, hôn nhân tự nguyện, có tổ chức hôn lễ, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Lợi An vào năm 2004, hiện tại vợ chồng chị đã ly thân nhau. Xét thấy cuộc sống chung không còn tình cảm, mục đích hôn nhân không đạt được, mâu thuẫn thường xuyên xảy ra và không hàn gắn được nên anh yêu cầu ly hôn với chị P.

Về con chung: Có ba người con chung cháu Bùi Thùy M, sinh ngày 19/6/2002, cháu Bùi Thị Bích T, sinh ngày 17/4/2015, cháu Bùi Mỹ H, sinh ngày 09/01/2007, các cháu hiện đang sống cùng chị P. Anh đồng ý giao con cho chị P trực tiếp nuôi dưỡng, anh cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật.

Về tài sản chung: Anh xác định tự thỏa thuận với chị P, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Anh xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Theo biên bản hòa giải ngày 13/5/2020 và tại phiên tòa, bị đơn Lê Thị Kiều P trình bày:

Về hôn nhân: Chị thống nhất với trình bày của anh B về thời gian chung sống, thời gian kết hôn, hôn nhân là do chị tự nguyện lựa chọn không ép buộc, hiện tại vợ chồng chị đã ly thân nhau. Chị không đồng ý ly hôn với anh B. Chị cho rằng hiện chị vẫn còn yêu thương chồng, mâu thuẫn không lớn, chị yêu cầu được hàn gắn để cùng nhau chăm sóc các con.

Về con chung: Có ba người con chung cháu Bùi Thùy M, sinh ngày 19/6/2002, cháu Bùi Thị Bích T, sinh ngày 17/4/2015, cháu Bùi Mỹ H, sinh ngày 09/01/2007, các cháu hiện đang sống cùng chị. Chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung, yêu cầu anh B cấp dưỡng nuôi hai cháu Bùi Mỹ H, Bùi Thị Bích T theo quy định pháp luật, do cháu M đã sắp đủ 18 tuổi nên không yêu cầu cấp dưỡng.

Về tài sản chung: Chị xác định tự thỏa thuận với anh B, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Chị xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Bị đơn Lê Thị Kiều P có nơi trú tại ấp Cỏ Xước, xã Lợi An, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Anh B khởi kiện yêu cầu ly hôn đối với chị P, yêu cầu chị P trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Do đó, quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án được xác định là "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con" theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Anh B là người khởi kiện, chị P là người bị kiện nên xác định tư cách đương sự anh B là nguyên đơn, chị P là bị đơn theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 68 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Anh chị tự nguyện xác lập quan hệ hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Lợi An, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau vào ngày 01/7/2004 đúng theo quy định tại Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình. Vì vậy, quan hệ hôn nhân giữa anh chị được pháp luật công nhận là hôn nhân hợp pháp.

Xét nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là do bất đồng quan điểm, thường xuyên cự cãi, gia đình hai bên có hàn gắn nhưng không thành, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Anh B xác định không còn tình cảm vợ chồng với chị P và thể hiện sự quyết tâm mong muốn được ly hôn. Bị đơn không đồng ý ly hôn với nguyên đơn và mong muốn được hàn gắn quan hệ vợ chồng để cùng nhau chăm sóc con chung, chị xác định mâu thuẫn giữa các bên là không đến mức trầm trọng nên yêu cầu được hàn gắn quan hệ vợ chồng, tuy nhiên chị không đưa ra được giải pháp để thuyết phục anh B đồng ý chấm dứt yêu cầu ly hôn và cùng sống chung với chị. Tại phiên tòa, anh B xác định, nếu cho các bên tiếp tục chung sống sẽ không mang lại hạnh phúc, do đó Hội đồng xét xử cần chấp nhận yêu cầu của anh B được ly hôn với anh chị P.

[3] Về con chung: Anh chị có ba người con chung cháu Bùi Thùy M, sinh ngày 19/6/2002, cháu Bùi Mỹ H, sinh ngày 09/01/2007 và cháu Bùi Thị Bích T, sinh ngày 17/4/2015, các cháu hiện đang sống cùng chị P, anh chị thống nhất giao con chung cho chị P trực tiếp nuôi dưỡng. Xét thấy, việc giao con cho ai trực tiếp nuôi dưỡng cần căn cứ vào điều kiện cụ thể của mỗi người cũng như sự phù hợp cho sự phát triển của các cháu để quyết định người trực tiếp nuôi dưỡng các cháu. Chị P là người trực tiếp nuôi dưỡng các cháu từ khi hai vợ chồng ly thân nhau cho đến nay, tòa án có ghi nhận ý kiến của cháu M và cháu H, các cháu có nguyện vọng được sống chung với chị P, do đó Hội đồng xét xử quyết định giao các cháu cho chị P tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp với nguyện vọng các bên, sự phát triển của các cháu và đúng với quy định của pháp luật.

[4] Về vấn đề cấp dưỡng nuôi con: Xét thấy, chị P là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung, anh B không trực tiếp nuôi con sẽ phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật hôn nhân gia đình, việc cấp dưỡng cho con là nghĩa vụ của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con theo quy định tại khoản 2 Điều 82 của Luật hôn nhân và gia đình. Chị P chỉ yêu cầu anh B có nghĩa vụ cấp dưỡng đối với cháu T và cháu H, không yêu cầu cấp dưỡng đối với cháu M do cháu M sắp đủ tuổi trưởng thành có nhận thức bình thường. Về mức cấp dưỡng, theo quy định tại Điều 116 và Điều 117 Luật hôn nhân và gia đình và hướng dẫn tại khoản 2, mục III của Công văn số 24/1999/KHXX ngày 17/3/1999 của Tòa án nhân dân tối cao thì mức cấp dưỡng tối thiểu không dưới 1/2 mức lương cơ sở do nhà nước quy định tại thời điểm xét xử đối với 01 người con, mức lương cơ sở hiện nay là 1.490.000 đồng, do đó anh B có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi các cháu với số tiền 1.000.000 đồng/tháng đối với mỗi cháu cho đến khi cháu T và cháu H đủ 18 tuổi là phù hợp. Thời điểm cấp dưỡng được tính kể từ ngày 21/5/2020.

[5] Về tài sản chung, nợ chung: Anh chị xác định tự thõa thuận với nhau và không có nợ chung, không yêu cầu tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc anh B phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình và 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 2 và khoản 3 Điều 68, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 227, Điều 235, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Khoản 1 Điều 9, Điều 53, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 107, Điều 110, Điều 116, Điều 117 Luật hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Bùi Văn B về việc yêu cầu được ly hôn với chị Lê Thị Kiều P.

2. Về con chung: Giao con chung Bùi Thùy M, sinh ngày 19/6/2002, Bùi Mỹ H, sinh ngày 09/01/2007, Bùi Thị Bích T, sinh ngày 17/4/2015 cho Lê Thị Kiều P trực tiếp nuôi dưỡng. Anh Bùi Văn B không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở.

3. Về cấp dưỡng: Buộc anh Bùi Văn B có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu Bùi Thị Bích T, sinh ngày 17/4/2015, Bùi Mỹ H, sinh ngày 09/01/2007 với số tiền 1.000.000 đồng/tháng đối với mỗi cháu cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi.

Thời điểm cấp dưỡng được tính kể từ ngày 21/5/2020.

Kể từ ngày chị Lê Thị Kiều P có đơn yêu cầu thi hành án, nếu anh Bùi Văn B không thi hành khoản tiền cấp dưỡng nêu trên thì phải chịu khoản tiền lãi chậm trả tương ứng với số tiền và thời gian chậm trả theo quy định tại Điều 468 Bộ luật dân sự.

4. Về án phí: Anh Bùi Văn B phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình và 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con, anh có nộp 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0003578 ngày 28 tháng 4 năm 2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau được chuyển thu, anh B phải nộp tiếp 300.000 đồng.

Án xử công khai, các đương sự được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn


208
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 123/2020/HNGĐ-ST ngày 21/05/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:123/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trần Văn Thời - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;