TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 3 - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 1222/2019/DS-ST NGÀY 18/11/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG SỬ DỤNG THẺ TÍN DỤNG
Trong ngày 18 tháng 11 năm 2018, tại phòng xử án Tòa án nhân dân Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 794/TLST-DS ngày 11 tháng 7 năm 2019 về việc “Tranh chấp hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 281/2019/QĐXXST-DS ngày 08 tháng 10 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 367/2019/QĐST-DS ngày 28 tháng 10 năm 2019, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại Cổ phần A
Trụ sở: Tầng 16, 23, 24 tòa nhà mipec, số 229 Tây sơn, phường T, quận Đ, Thành phố Hà Nội.
Địa chỉ chi nhánh: Số 2.5 – 2.8 đường C, Phường 3, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Nguyễn Thanh S, là người đại diện hợp pháp theo Giấy ủy quyền số 305/2019/UQ-PGB.SG ngày 14/5/2019. (Có đơn xin xét xử vắng mặt).
Bị đơn: Ông Dương Minh H, Sinh năm 1970
Địa chỉ: Số 262/73B, đường B, Phường 14, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh. (Vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong Đơn khởi kiện đề ngày 14/5/2019, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn Ngân hàng Thương mại Cổ phần A có ông Nguyễn Thanh S là Người đại diện hợp pháp theo ủy quyền trình bày: Ngày 20/05/2014, khách hàng là ông Dương Minh H có ký với Ngân hàng A giấy Đề nghị phát hành thẻ tín dụng quốc tế, Điều kiện điều khoản kiêm hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng quốc tế PG Bank Visa. Căn cứ vào thu nhập của Ông H, Ngân hàng đã đồng ý cấp thẻ tín dụng với hạn mức sử dụng là 10.000.000 đồng, với mục đích tiêu dung cá nhân. Lãi suất trong hạn là 23%/năm. Lãi suất này áp dụng từ ngày 20/05/2014 đến nay không thay đổi.
Sau khi được cấp Thẻ tín dụng, Ông H đã thực hiện các giao dịch với tổng số tiền là 10.150.000 đồng.
Trong quá trình sử dụng thẻ, từ ngày kích hoạt thẻ đến nay Ông H đã thanh toán cho Ngân Hàng với tổng số tiền là 6.114.000 đồng. số tiền thanh toán được thanh toán cụ thể như sau: Phí trễ hạn 50.000 đồng, phí thường niên 150.000 đồng, lãi 2.186.979 đồng, gốc 3.727.021 đồng. Sau khi trừ hết các khoản trên theo thứ tự thì số tiền gốc còn lại là 9.683.769 đồng. Ông H sử dụng thẻ từ tháng 05/2014 đến tháng 06/2015 thì có thanh toán một phần nợ cho PGBank, nhưng kể từ tháng 07/2015 thì không thanh toán. Qua nhiều lần gọi điện nhắc nhỡ, gửi văn bản thông báo nhưng Ông H vẫn không có thiện chí trả nợ cho PGB.
Ngày 26/06/2015 Ngân hàng đã chấm dứt quyền sủ dụng thẻ và chuyển toàn bộ dư nợ còn thiếu sang nợ quá hạn. Lãi suất quá hạn được tính trên số tiền nợ gốc là 9.683.769 đồng áp dụng theo mức lãi suất quá hạn là 34.5%/năm. Tiền lãi quá hạn từ ngày 26/06/2015 đến ngày 30/08/2019 là 3.875.733 đồng.
Do ông H đã vi phạm nghĩa vụ than toán nên Ngân hàng A yêu cầu Tòa án buộc ông H có trách nhiệm thanh toán tiền nợ thẻ tín dụng cho A tạm tính đến ngày 30/08/2019 cụ thể như sau:
Nợ gốc : 9.683.769 đồng. Lãi quá hạn : 3.875.733 đồng. Lãi suất quá hạn: 34.5%/năm.
Ngoài ra ông Dương Minh H còn phải tiếp tục thanh toán khoản lãi phát sinh từ ngày 31/8/2019 cho đến khi trả dứt nợ vay theo lãi suất quy định tại Hợp đồng.
Khi ký kết hợp đồng do một mình ông H ký và Ngân hàng A cũng chỉ cấp một thẻ tín dụng cho ông H, ngoài ra không cấp thêm thẻ phụ nào cả. Do đó Ngân hàng A chỉ yêu cầu một mình ông H phải có nghĩa vụ thanh toán số tiền còn nợ, ngoài ra không yêu cầu vợ ông H phải thanh toán cùng.
Bị đơn ông Dương Minh H đã được tống đạt, niêm yết hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án, Giấy triệu tập để trình bày ý kiến, các Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải theo qui định của pháp luật, nhưng ông H vẫn không có mặt theo triệu tập nên Tòa án không ghi nhận được lời khai của ông Sơn.
Tại phiên tòa hôm nay:
- Nguyên đơn Ngân hàng Thương mại Cổ phần A có ông Nguyễn Thanh S là Người đại diện hợp pháp theo ủy quyền có đơn xin xét xử vắng mặt. Tại Đơn đề nghị thay đổi một phần đơn khởi kiện đề ngày 16/11/2019 và bản tự khai ngày 18/11/2019 ông Sang xác định lại yêu cầu khởi kiện như sau:
1. Rút lại yêu cầu ông H phải tiếp tục trả lãi từ ngày 14/3/2019 cho đến khi ông H trả hết nợ cho Ngân hàng.
2. Yêu cầu buộc ông Dương Minh H có trách nhiệm trả cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần A số tiền tạm tính đến ngày 14/03/2019 là 13.559.502 đồng (Bằng chữ: Mười ba triệu, năm trăm năm mươi chín ngàn, năm trăm lẻ hai đồng). Trong đó nợ gốc 9.683.769 đồng; Lãi và phạt phát sinh: 3.875.733 đồng. Việc thực hiện trả tiền được thực hiện một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.
- Bị đơn ông Dương Minh H vắng mặt.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 3 phát biểu ý kiến: Quá trình giải quyết, thu thập chứng cứ và tại phiên tòa Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về thủ tục tố tụng, quan hệ tranh chấp và thẩm quyền:
[1.1]. Nguyên đơn Ngân hàng Thương mại Cổ phần A khởi kiện bị đơn ông Dương Minh H phải có trách nhiệm thanh toán số nợ do sử dụng thẻ tín dụng quốc quốc tế PG Bank Visa theo “Đề nghị phát hành thẻ tín dụng quốc tế ngày 10/5/2014”, nên đây là vụ án “Tranh chấp về hợp đồng dân sự” được quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.
[1.2]. Theo kết quả xác minh của Công an Phường 14, Quận 3 trả lời Phiếu yêu cầu xác minh ngày 22/7/2019 của Tòa án nhân dân Quận 3 thể hiện: “Ông Dương Minh H sn 1970 có HKTT tại 262/73B, đường Lê Văn Sỹ, Phường 14, Quận 3, TP.HCM. Nhưng hiện nay ông H cùng gia đình đã bán nhà đi từ năm 2014 và không còn thực tế cư ngụ tại địa phương, không năm được địa chỉ ông H đang cư ngụ” Căn cứ kết quả xác minh trên cho thấy khi ký kết hợp đồng, bị đơn ông Dương Minh H đã thay đổi nơi cư trú, làm việc gắn với việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong giao dịch, hợp đồng mà không thông báo cho Nguyên đơn biết về nơi cư trú, làm việc mới theo quy định tại khoản 3 Điều 40, điểm b khoản 2 Điều 277 Bộ luật dân sự năm 2015 nên đây được xem là trường hợp cố tình che giấu địa chỉ, được quy định tại điểm a khoản 2 Điều 6 của Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Do đó, nơi cư trú tại Quận 3 của bị đơn được xem là nơi cư trú cuối cùng nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận 3, căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.
[2]. Về thủ tục xét xử vắng mặt:
[2.1]. Nguyên đơn Ngân hàng Thương mại Cổ phần A có ông Nguyễn Thanh S là Người đại diện hợp pháp theo ủy quyền có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ vào khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, Tòa án giải quyết vắng mặt nguyên đơn.
[2.2]. Bị đơn ông Dương Minh H đã được tống đạt, niêm yết hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa và Giấy triệu tập để tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, Tòa án nhân dân Quận 3 tiến hành xét xử vắng mặt ông Dương Minh H.
[3] Về việc thay đổi yêu cầu khởi kiện:
Nguyên đơn – Ngân hàng Thương mại Cổ phần A có đơn đề nghị rút yêu cầu khởi kiện đối với việc yêu cầu ông Dương Thanh H thanh toán tiền lãi phát sinh từ ngày 14/3/2019 cho đến khi trả hết nợ là phù hợp với quy định tại Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[4] Về yêu cầu của Nguyên đơn:
Nguyên đơn Ngân hàng Thương mại Cổ phần A yêu cầu buộc ông Dương Minh H phải có trách nhiệm thanh toán cho Ngân hàng số tiền nợ thẻ tín dụng tiền tạm tính đến ngày 14/03/2019 là 13.559.502 đồng (Bằng chữ: Mười ba triệu, năm trăm năm mươi chín ngàn, năm trăm lẻ hai đồng) trong đó nợ gốc 9.683.769 đồng; Lãi và phạt phát sinh: 3.875.733 đồng. Yêu cầu trả một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật. Hội đồng xét xử xét thấy:
a). Về nợ gốc Căn cứ lời khai của nguyên đơn, căn cứ Đề nghị phát hành thẻ tín dụng quốc tế ngày 10/5/2014 và Điều kiện điều khoản kiêm hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng quốc tế PG Bank Visa thì giữa chủ thẻ chính là ông Dương Minh H và bên phát hành thẻ là Ngân hàng A có thỏa thuận việc cấp và sử dụng thẻ tín dụng quốc tế PG Bank Visa, với hạn mức sử dụng là 10.000.000 đồng, mục đích tiêu dung cá nhân. Lãi suất trong hạn là 23%/năm, loại thẻ Visa Contract. Khi được cấp thẻ tín dụng ông H đã được đọc và hiểu rõ nội dung Điều kiện điều khoản kiêm hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng quốc tế PG Bank Visa do PG Bank phát hành.
Căn cứ vào các bảng thông báo giao dịch hàng tháng, Thông báo chuyển nợ quá hạn và thu hồi nợ trước hạn, bảng kê tính lãi khách hàng Dương Minh H của PG Bank cập nhật đến ngày 18/11/2019 thể hiện rõ ông Dương Minh H sử dụng thẻ tín dụng quốc tế PG Bank -Visa số thẻ 4378930000396386 đã phát sinh nợ gốc là 9.683.769 đồng đến nay đã quá hạn nhưng chưa thanh toán.
Căn cứ khoản 2.2 Điều 2 Bản các điều khoản và điều kiện sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng A qui định:“...Thanh toán đầy đủ, đúng thời hạn (bao gồm cả nợ gốc, lãi và phí phát sinh, theo quy định của ngân hàng về việc sử dụng thẻ....".
Căn cứ khoản 1 Điều 474 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định “Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn…”. Căn cứ khoản 1 Điều 290 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định “Nghĩa vụ trả tiền phải được thực hiện đầy đủ, đúng thời hạn, đúng địa điểm và phương thức đã thỏa thuận…”.
Căn cứ khoản 1 Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng quy định: “Tổ chức tín dụng có quyền chấm dứt việc cấp tín dụng, thu hồi nợ trước hạn khi phát hiện khách hàng cung cấp thông tin sai sự thật, vi phạm các quy định trong hợp đồng cấp tín dụng”.
Xét quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã ban hành Thông báo thụ lý vụ án, thông báo phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải và tống đạt hợp lệ các văn bản này cho bị đơn ông Dương Minh H. Trong nội dung thông báo thụ lý có nêu rõ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về số tiền nợ gốc và lãi cũng như các chứng cứ mà nguyên đơn xuất trình và đề nghị ông H có ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Tuy nhiên, ông H không có bất cứ ý kiến phản bác nào đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Vì vậy, từ các căn cứ đã nêu chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc buộc bị đơn phải trả số nợ gốc phát sinh từ việc sử dụng thẻ tín dụng quốc tế PG Bank-Visa (Visa Contract) số thẻ 4378930000396386 là 9.683.769 đồng đồng là phù hợp.
b). Về nợ lãi - Xét yêu cầu của Thương mại Cổ phần A về việc yêu cầu bị đơn ông Dương Minh H phải trả lãi quá hạn (tính từ ngày 26/6/2015 đến ngày 14/3/2019/2019) là 3.875.733 đồng. Hội đồng xét xử xét thấy:
Căn cứ khoản khoản 2 Điều 290 Bộ luật dân sự 2005 quy định “...Nghĩa vụ trả tiền bao gồm cả tiền lãi trên nợ gốc...”.
Căn cứ khoản 2 Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng qui định : “Tổ chức tín dụng và khách hàng có quyền thỏa thuận về lãi suất, phí cấp tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật”.
Căn cứ khoản 5.3 Điều 5 Bản các điều kiện, điều khoản kiêm hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng của Thương mại Cổ phần A qui định :"….khi khoản vay ở trạng thái nợ quá hạn, Chủ thẻ phải thanh toán toàn bộ dư nợ (không có giá trị tối thiểu), khoản vay quá hạn sẽ áo dụng theo mức lãi xuất quá hạn và chịu sự điều chỉnh theo quy định của Ngân hàng…”.
Xét quá trình sử dụng sử dụng thẻ tín dụng quốc tế PG Bank-Visa số thẻ 4378930000396386, bị đơn ông Dương Minh H đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán nợ gốc, không thanh toán nợ gốc đúng hạn nên ông H phải chịu tiền lãi theo mức lãi suất đã thỏa thuận trong hợp đồng là phù hợp.
Căn cứ bảng kê tính lãi khách hàng Dương Minh Sơn do Ngân hàng A cung cấp cập nhật đến ngày 18/11/2019 thì ông H còn nợ số tiền lãi tính đến ngày 14/3/2019 là 3.875.733 đồng.
Căn cứ Quyết định số 255-12 ngày 19/10/2012 của Ngân Hàng A có qui định như sau:“….PGBank tiếp tục theo dõi nợ quá hạn 30 đến nợ quá hạn 330 (Theo đúng phân loại nhóm nợ của NHNN : Nợ nhóm 1 là nợ đủ tiêu chuẩn, nợ nhóm 2 là nợ cần chú ý và bị quá hạn từ 10 – 90 ngày. Nợ nhóm 3 là nợ dưới tiêu chuẩn và bị quá hạn từ 91 – 180 ngày. Nợ nhóm 4 là nợ nghi ngờ, và bị quá hạn từ 181 – 360 ngày. Nợ nhóm 5 là nợ có khả năng mất vốn, bị quá hạn trên 360 ngày). Tiếp tục tính lãi đến khi dư nợ chuyển vào nhóm Nợ quá hạn 360(OVD 360 thì ngừng tính lãi.
Số nợ của ông Dương Minh H thuộc vào nhóm nợ quá 360 ngày do đó Ngân hàng PG Bank không yêu cầu ông H phải trả lãi sau 360 ngày.
Việc Thương mại Cổ phần A chỉ yêu cầu ông H phải trả lãi từ ngày26/6/2015 đến ngày 14/3/2019 với số tiền 3.875.733 đồng là có lợi cho ông H Với các căn cứ như đã nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc buộc bị đơn phải trả số tiền lãi còn nợ là 3.875.733 đồng là phù hợp nên được chấp nhận.
[5]. Về án phí : Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận toàn bộ nên nguyên đơn không phải chịu án phí.
Bị đơn phải chịu án phí đối với số tiền phải trả cho nguyên đơn.
Ý kiến phát biểu của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 3: Qua nghiên cứu hồ sơ vụ án và kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án nhân dân Quận 3 trong quá trình giải quyết vụ án và tham gia phiên tòa sơ thẩm hôm nay, nhận thấy yêu cầu của nguyên đơn Thương mại Cổ phần A là có cơ sở để chấp nhận. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên chấp nhận yêu cầu của Nguyên đơn.
Vì các lẽ nêu trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Áp dụng khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 266, khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
- Áp dụng Điều 290; Điều 471; khoản 1 Điều 474 Bộ luật dân sự năm 2005;
- Áp dụng khoản 2 Điều 91, khoản 1 Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng;
- Áp dụng các Điều 91, 95 Luật các tổ chức tìn dụng
- Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án và Danh mục án phí, lệ phí Tòa án (ban hành kèm theo);
- Áp dụng Luật Thi hành án dân sự.
Tuyên xử:
1/. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Thương mại Cổ phần A:
Buộc ông Dương Minh H phải có trách nhiệm trả cho Thương mại Cổ phần A số tiền là 13.559.502 đồng (Bằng chữ: Mười ba triệu, năm trăm năm mươi chín ngàn, năm trăm lẻ hai đồng) làm một lần ngay sau khi bản án của Tòa có hiệu lực pháp luật, trong đó nợ gốc 9.683.769 đồng; Lãi và phạt phát sinh: 3.875.733 đồng.
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất các bên thỏa thuận nhưng phải phù hợp với quy định của pháp luật; nếu không có thỏa thuận về mức lãi suất thì quyết định theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
2. Đình chỉ giải quyết một phần yêu cầu khởi kiện của Thương mại Cổ phần A về việc yêu cầu ông Dương Minh H phải thanh toán tiền lãi phát sinh từ ngày 14/3/2019 cho đến khi ông Sơn trả hết nợ cho Ngân hàng.
Việc thi hành tại Cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền.
3/. Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Dương Minh H phải chịu 677.975 đồng (Sáu tram bảy mươi bày ngàn chín trăm bày mươi lăm đồng).
Trả lại cho Thương mại Cổ phần A số tiền 581.082 (Năm trăm tám mươi mốt ngàn không trăm tám mươi hai đồng) là tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tiền số 0014450 ngày 11/7/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh.
4/. Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./
Bản án 1222/2019/DS-ST ngày 18/11/2019 về tranh chấp hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng
Số hiệu: | 1222/2019/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận 3 - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 18/11/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về