Bản án 122/2023/HS-ST về tội vận chuyển hàng cấm

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÔNG HÀ, TỈNH QUẢNG TRỊ

BẢN ÁN 122/2023/HS-ST NGÀY 06/12/2023 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM

Ngày 06 tháng 12 năm 2023 tại Hội trường Tòa án nhân dân thành phố Đông Hà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 115/2023/TLST-HS ngày 17 tháng 11 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 113/2023/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 11 năm 2023 đối với bị cáo:

Trần Thị Yến V, sinh ngày: 06/7/1972 tại Quảng Trị; nơi cư trú: Khu phố C, Phường E, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị; giới tính: Nữ; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: lớp 05/12; nghề nghiệp: Buôn bán; con ông: Trần M và bà: Đỗ Thị Đ (đều đã chết); gia đình có 05 chị em, bị cáo là con thứ hai; chồng: Trần Viết Đ1, sinh năm 1961 (đã ly hôn); bị cáo có 03 người con, con lớn nhất sinh năm 1992, con nhỏ nhất sinh năm 1998; tiền án: Không có.

Tiền sự: 01 (Một), ngày 28/01/2022, bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Đ ra quyết định xử phạm vi phạm hành chính về hành vi “Tàng trữ trái phép pháo” với mức tiền phạt 7.500.000 đồng (đã chấp hành xong).

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 22/8/2023, đến ngày 31/8/2023 thì bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 05 giờ 30 phút ngày 21/8/2023, Trần Thị Yến V điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 75G1-X của mình đi từ nhà lên đến chợ L (thuộc thị trấn L, huyện H, tỉnh Quảng Trị) để mua hàng hoá. Đến khoảng 08 giờ cùng ngày, khi bị cáo V vào trong chợ L, thì có một người phụ nữ (không rõ lai lịch) đến gặp V. Qua nói chuyện, người phụ nữ này đặt vấn đề thuê bị cáo V vận chuyển 02 hộp pháo hoa nổ về thành phố Đ với tiền công vận chuyển là 200.000 đồng. Do cần tiền chi tiêu cá nhân nên bị cáo V đồng ý. Người phụ nữ lấy 02 hộp pháo hoa nổ giao cho bị cáo V và dặn V vận chuyển số pháo hoa nổ này đến tại gác chắn tàu đường N, thành phố Đ, vào lúc 12 giờ cùng ngày sẽ có một người (không rõ là nam hay nữ) đến nhận pháo hoa nổ và trả tiền công vận chuyển cho V, nếu không giao được pháo thì ngày hôm sau V lên lại khu vực trước cổng chợ L báo cho người phụ nữ này biết để người phụ nữ liên lạc lại cho bên người nhận. Đến khoảng 08 giờ 30 phút cùng ngày, V lấy 02 hộp pháo hoa nổ (01 hộp được đựng trong bao ni lông màu đen và 01 hộp được đựng trong túi xách bằng vải màu đen, có in dòng chữ YAMAHA) bỏ vào trong cốp xe mô tô mang biển kiểm soát 75G1-X và điều khiển xe đi đến khu vực chắn tàu đường N (thuộc Phường A, thành phố Đ) để đợi giao pháo hoa nổ nhưng không có ai đến nhận nên V đưa 02 hộp pháo hoa nổ trên về nhà của mình cất giấu.

Do không giao được 02 hộp pháo hoa nổ trên, nên vào khoảng 06 giờ ngày 22/8/2023, V điều khiển xe mô tô mang biển kiểm soát 75G1-X đi từ nhà đến tại đường Đ, thuộc địa phận Phường C, thành phố Đ, giấu xe mô tô vào bãi đất trống bên đường, sau đó đón xe khách (không nhớ nhãn hiệu và biển kiêm st) đi lên chợ L để gặp người phụ nữ thuê vận chuyển pháo hoa nổ ngày hôm trước. Sau khi trao đổi về việc chưa giao được 02 hộp pháo hoa nổ trên thì người phụ nữ này gọi điện cho ai đó, rồi tiếp tục yêu cầu V vận chuyển thêm 08 hộp pháo hoa nổ khác với tiền công vận chuyển là 400.000 đồng. Đồng thời, người phụ nữ này nói với V khi vận chuyển về thành phố Đ thì lấy thêm 02 hộp pháo hoa nổ ngày 21/8/2023 mà V chưa giao được (tổng cộng 10 hộp pháo hoa nổ) đưa đến địa điểm gác chắn tàu đường N, thành phố Đ để giao thì V đồng ý. Người phụ nữ này đưa cho V 08 hộp pháo hoa nổ (04 hộp pháo hoa đựng trong giỏ xách bằng nhựa màu đỏ và 04 hộp được đựng trong bao ni lông màu xanh) và 600.000 đồng bằng tiền mặt (trong đó 200.000 đồng là tiền công vận chuyển 02 hộp pháo hoa nổ ngày 21/8/2023 và 400.000 đồng là tiền công vận chuyển 08 hộp pháo hoa nổ ngày 22/8/2023). Khi người phụ nữ này rời đi thì V đón xe khách (không nhớ nhãn hiệu và biển kiểm soát) về thành phố Đ. Do từng hộp pháo hoa nổ được bọc trong các bao ni lông màu đen nên chủ xe không phát hiện là pháo hoa nổ. Đến khoảng 12 giờ 00 phút cùng ngày, khi xe khách đến đường Đ (thuộc Phường C, thành phố Đ), V xuống xe và lấy 04 hộp pháo hoa nổ đựng trong bao ni lông xanh ra cất giấu trong cốp xe, còn 04 hộp pháo đựng trong giỏ xách bằng nhựa V để ở vị trí gác chân của xe mô tô biển kiểm soát 75G1-X và điều khiển xe chạy về nhà, khi đi đến đoạn đường T (thuộc Khu phố C, Phường A, thành phố Đ) thì bị Công an thành phố Đ bắt quả tang và thu giữ 08 khối hộp pháo hoa nổ nói trên. Sau khi bị bắt quả tang, V đã tự nguyện khai báo và giao nộp 02 hộp pháo hoa nổ đang cất giấu tại nhà riêng của mình.

Vật chứng thu giữ: 09 hộp pháp hoa nổ, kích thước mỗi hộp: 18cm x18cm x10cm, bên ngoài mỗi hộp có vỏ bọc hiệu ONG T4049 CS689; 01 khối hộp pháo hoa nổ, kích thước: 14,5cm x 14,5cm x 14 cm bên ngoài hộp có vỏ bọc hiệu CHONGKOL C0834; 05 bao nilong màu đen, kích thước mỗi bao: 25cm x 30cm; 01túi xách bằng vải, màu đen, kích thước: 25cm x 35cm, có in dòng chữ YAMAHA; 01 giỏ xách bằng nhựa, màu đỏ, kích thước: 37cm x 40 cm x 17cm; 01 xe mô tô nhãn hiệu SYM Attila màu trắng mang biển kiểm soát 75G1-X, số máy VUABD-006041, số khung: BDCD-006041; 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 002635 mang tên Ngô Anh Đ2 do Công an thị xã H, tỉnh Thừa Thiên Huế cấp ngày 01/7/2012; Tiền Ngân hàng N 600.000 đồng.

Tại Bản kết luận giám định số 837/KL-KTHS ngày 29/8/2023 của Phòng K, Công an tỉnh Q kết luận:

Mẫu vật được niêm phong trong thùng giấy ký hiệu M1 gửi đến giám định đều là pháo hoa nổ có khối lượng 13,5 kg.

Mẫu vật được niêm phong trong thùng giấy ký hiệu M2 gửi đến giám định đều là pháo hoa nổ có khối lượng 03 kg.

Tại bản cáo trạng số 120/CT-VKSĐH ngày 16/11/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị truy tố bị cáo Trần Thị Yến V về tội “Vận chuyển hàng cấm”, theo điểm c, e khoản 1 Điều 191 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đông Hà giữ nguyên cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng: Điểm c, e khoản 1 Điều 191; điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 35 Bộ luật Hình sự, xử phạt Trần Thị Yến V từ 70.000.000 đến 80.000.000 đồng.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu và tiêu hủy: 07 (bảy) hộp pháo hoa nổ vỏ ngoài bọc giấy có ký hiệu T4049 CS689 hoa văn nhiều màu sắc đựng trong thùng giấy ký hiệu M1 được niêm phong, có chữ ký của những người tham gia niêm phong và hình dấu Phòng K Công an tỉnh Q được hoàn lại sau giám định; 05 bao nilong màu đen, kích thước mỗi bao: 25cm x 30cm; 01 túi xách bằng vải, màu đen, kích thước: 25cm x 35cm, có in dòng chữ YAMAHA; 01 giỏ xách bằng nhựa, màu đỏ, kích thước: 37cm x 40 cm x 17cm;

Tịch thu sung nộp ngân sách Nhà nước: 01 xe mô tô nhãn hiệu SYM Attila màu trắng mang biển kiểm soát 75G1-X, số máy VUABD-006041, số khung: BDCD-006041; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 002635 mang tên Ngô Anh Đ2 do Công an thị xã H cấp ngày 01/7/2012; Tiền Ngân hàng N 600.000 đồng.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo đã biết hành vi sai trái của mình, tha thiết mong Tòa án cho bị cáo cơ hội sửa chữa bản thân và chăm sóc con gái đang điều trị bệnh tim, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử: Hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra, Công an thành phố Đ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đông Hà, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Trong đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện đều hợp pháp, đúng pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án cũng như nội dung bản cáo trạng đã thể hiện đủ cơ sở kết luận: Vào các ngày 21/8 và 22/8/2023, Trần Thị Yến V đã có hành vi vận chuyển trái phép pháo hoa nổ nhằm lấy tiền công vận chuyển. Hành vi của bị cáo đã cấu thành tội "Vận chuyển hàng cấm", quy định tại điểm c, e khoản 1 Điều 191 Bộ luật Hình sự. Điều luật quy định: Phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm sự: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trật tự quản lý kinh tế mà cụ thể là xâm phạm chế độ độc quyền của Nhà nước trong quản lý, sản xuất, kinh doanh một số loại hàng hóa. Xem xét nhân thân bị cáo thấy rằng ngày 28/01/2022, bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Đ xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Tàng trữ trái phép pháonhưng vì muốn hưởng lợi nên bị cáo vẫn tiếp tục vi phạm pháp luật, nhận vận chuyển hàng cấm nên cần xử phạt bị cáo nghiêm minh mới có tác dụng răn đe giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Bị cáo 02 lần thực hiện hành vi vận chuyển pháo hoa nổ vào ngày 21/8/2023 và 22/8/2023 nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự phạm tội 02 lần trở lên quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ: Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử thấy rằng: Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, sau khi bị bắt quả tang bị cáo đã khai nhận hành vi vận chuyển hàng cấm vào ngày 21/8/2023 và giao nộp 02 hộp pháo hoa nổ là “Tự thú”; bị cáo đã tự nguyện giao nộp 600.000 đồng tiền thu lợi bất chính; hoàn cảnh bị cáo hiện đã ly hôn, đang phải chăm sóc, nuôi dưỡng con đã thành niên bị hẹp van tim và hở van hai lá mức độ ¼, hở van động mạch chủ 2/4 bệnh van tim hậu thấp được chính quyền địa phương xác nhận nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điểm r, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm một phần hình phạt cho bị cáo.

Hội đồng xét xử căn cứ vào nhân thân, tính chất hành vi và mục đích phạm tội của bị cáo, thấy rằng: Bị cáo phạm tội vì mục đích lợi nhuận kinh tế, nên cần áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính như đề nghị của Viện kiểm sát để nhằm răn đe và giáo dục bị cáo là hoàn toàn phù hợp.

Đối với người phụ nữ thuê V vận chuyển 10 hộp pháo hoa nổ, Cơ quan CSĐT đã tiến hành các biện pháp điều tra nhưng không xác định được nhân thân, lai lịch nên không có căn cứ để xử lý.

[5] Về xử lý vật chứng: 07 (bảy) hộp pháo hoa nổ vỏ ngoài bọc giấy có ký hiệu T4049 CS689 hoa văn nhiều màu sắc đựng trong thùng giấy ký hiệu M1 được niêm phong, có chữ ký của những người tham gia niêm phong và hình dấu Phòng K Công an tỉnh Q được hoàn lại sau giám định là vật cấm lưu hành; 05 bao nilong màu đen, kích thước mỗi bao:

25cm x 30cm; 01 túi xách bằng vải, màu đen, kích thước: 25cm x 35cm, có in dòng chữ YAMAHA; 01 giỏ xách bằng nhựa, màu đỏ, kích thước: 37cm x 40 cm x 17cm không có giá trị nên cần tịch thu và tiêu hủy.

Xe mô tô nhãn hiệu SYM Attila màu trắng mang biển kiểm soát 75G1- X, số máy VUABD-006041, số khung: BDCD-006041; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 002635 mang tên Ngô Anh Đ2 do Công an thị xã H cấp ngày 01/7/2012 là tài sản của bị cáo sử dụng làm công cụ phương tiện phạm tội; 600.000 đồng tiền Ngân hàng N là khoản tiền thu lợi bất chính nên cần tịch thu sung nộp ngân sách Nhà nước.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trần Thị Yến V phạm tội “Vận chuyển hàng cấm”.

Căn cứ vào điểm c, e khoản 1 Điều 191; điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 35 Bộ luật Hình sự, xử phạt Trần Thị Yến V 70.000.000 đồng (Bảy mươi triệu đồng chẵn) .

3. Về xử lý vật chứng và tài sản tạm giữ: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, b, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tuyên xử:

Tịch thu và tiêu hủy: 07 (bảy) hộp pháo hoa nổ vỏ ngoài bọc giấy có ký hiệu T4049 CS689 hoa văn nhiều màu sắc đụng trong thùng giấy ký hiệu M1 được niêm phong, có chữ ký của những người tham gia niêm phong và hình dấu Phòng K Công an tỉnh Q được hoàn lại sau giám định là vật cấm lưu hành; 05 bao nilong màu đen, kích thước mỗi bao: 25cm x 30cm; 01 túi xách bằng vải, màu đen, kích thước: 25cm x 35cm, có in dòng chữ YAMAHA; 01 giỏ xách bằng nhựa, màu đỏ, kích thước: 37cm x 40 cm x 17cm.

Tịch thu sung nộp ngân sách Nhà nước: 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu SYM Attila màu trắng mang biển kiểm soát 75G1-X, số máy VUABD-006041, số khung: BDCD-006041; xe máy số 002635 mang tên Ngô Anh Đ2 do Công an thị xã H cấp ngày 01/7/2012 là tài sản của bị cáo sử dụng làm công cụ phương tiện phạm tội; tiền Ngân hàng 600.000 đồng. (Các vật chứng hiện có tại Chi Cục Thi hành án dân sự thành phố Đông Hà theo biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Đ với Chi Cục Thi hành án dân sự thành phố Đông Hà ngày 27/11/2023) và 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô số 002635 (hiện có tại hồ sơ vụ án).

4. Về án phí: Căn cứ khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí, xử: Buộc bị cáo Trần Thị Yến V phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

72
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 122/2023/HS-ST về tội vận chuyển hàng cấm

Số hiệu:122/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đông Hà - Quảng Trị
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;