Bản án 122/2020/HSST ngày 28/05/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 122/2020/HSST NGÀY 28/05/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 5 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Long Biên, thành phố Hà Nội. Tòa án nhân dân quận Long Biên, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 134/2020/HSST ngày 11 tháng 5 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 131/2020/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 5 năm 2020 đối với bị cáo:

1. Họ và tên: Chu Trọng T - SN 1973 Giới tính: Nam

HKTT và chỗ ở: Tổ A - Phường P - Quận Long Biên - Hà Nội

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Bảo vệ;

Trình độ văn hóa: 7/10; Con ông: Chu Trọng P (Đã mất); Con bà: Hà Thị L ; Vợ là Chu Thị T, có 02 con sinh năm 1994 và 2003;

Tiền án, tiền sự: Không

2. Họ và tên: Cao Bá C - SN 1969 Giới tính: Nam

HKTT và nơi ở: Tổ A - Phường T - Quận Long Biên - Hà Nội

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Bảo vệ;

Trình độ văn hóa: 7/10; Con ông: Cao Văn T (Đã mất) Con bà: Chu Thị T1

Vợ: Hoàng Thị Th; Có 03 con sinh năm 1999, 2006 và 2012 Tiền án, tiền sự: Không.

3. Họ và tên: Nguyễn Văn T2 - SN 1987 Giới tính: Nam

HKTT và chỗ ở: Xã L - Huyện Văn Giang - Hưng Yên

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Bảo vệ;

Trình độ văn hóa: 12/12; Con ông: Nguyễn Văn B; Con bà: Ngô Thị C

Vợ: Nguyễn Thị T; Có 02 con sinh năm 2012 và 2014.

Tiền án, tiền sự: Không

4. Họ và tên: Nguyễn Thanh Đ - SN 1980 Giới tính: Nam

HKTT và chỗ ở: Thôn V - Xã C - Huyện Gia Lâm - Hà Nội

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Bảo vệ

Trình độ văn hóa: 12/12; Con ông: Nguyễn Bá C2; Con bà: Nguyễn Thị H2;

Vợ Lê Thị Hồng N; Có 01 con sinh năm 2005; Tiền án, tiền sự: Không

5. Họ và tên: Nguyễn Bá H4 - SN 1974 Giới tính: Nam

HKTT và chỗ ở: Xã P - Huyện Gia Lâm - Hà Nội.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Bảo vệ;

Trình độ văn hóa: 12/12; Con ông: Nguyễn Bá Du; Con bà: Vũ Thị H5;

Vợ Ngô Thị Hồng H6, có 02 con sinh năm 2001 và 2007; Tiền án, tiền sự: Không

6. Họ và tên: Bùi Nho K - SN 1982 Giới tính: Nam

HKTT và chỗ ở: Thôn T - Xã P - Huyện Gia Lâm - Hà Nội.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Bảo vệ;

Trình độ văn hóa: 09/12; Con ông: Bùi Nho C; Con bà: Phùng Thị S;

Vợ Nguyễn Thị Th2, có 01 con sinh năm 2008; Tiền án, tiền sự: Không

Các bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 21/01/2020 đến nay. (Có mặt tại phiên tòa)

Bị hại: Công ty cổ phần K2

Trụ sở: Phố S, phường S, quận Long Biên, Hà Nội

Do ông Phạm Văn P là đại diện theo ủy quyền. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Văn T2, Chu Trọng T, Cao Bá C, Nguyễn Thanh Đ, Nguyễn Bá H4, Bùi Nho K là nhân viên hợp đồng thuộc tổ bảo vệ của Công ty CP K2. Khoảng 22h ngày 04/8/2019, Nguyễn Văn T2 (là trưởng ca trực) nhận bàn giao ca trực tại Công ty CP K2, thời gian ca trực là từ 22 giờ đến 06 giờ sáng ngày 05/8/2019, cùng ca trực với T2 có C, T, H4, K, Đ. Sau khi nhận ca trực, 06 người này tập trung tại phòng thường trực tại cổng chính của Công ty. Do ca trực vào tối ngày chủ nhật nên Công ty không có công nhân sản xuất, T mang theo từ nhà 01 chai rượu loại 1,25 lít cùng một ít chân gà luộc đến công ty và rủ 05 người trên uống rượu. Do sợ bị camera đặt trên tầng 2 tòa nhà văn phòng phát hiện nên T2 đã bảo K dùng mũ lưỡi chai của công nhân Công ty chụp vào nhằm che mặt Camera. Sau đó, cả 06 người ngồi trong phòng trực uống rượu. Đến 22 giờ 30’ cả nhóm phát hiện khu vực tầng 1 và tầng 2 khu văn phòng bị mất điện, qua quan sát màn hình camera an ninh đặt tại phòng trực phát hiện T2 bộ hệ thống camera đặt xung quanh công ty đã bị mất tín hiệu. Lợi dụng lúc mất điện, T bảo 05 người còn lại: "anh em mình lấy một ít đề xê mang bán kiếm tiền ăn sáng, uống nước", tất cả đồng ý. Sau đó, T2 phân công Đ đi ra trực chốt trước cửa công Trung T giới thiệu sản phẩm của Công ty (vì khu vực này thường xuyên bật đèn sáng nếu không có ai đứng chốt sẽ bị phát hiện). Còn T2 đứng chốt ở cổng chính với nhiệm vụ gọi xe ba bánh chở hàng để mang số vật tư chiếm đoạt được của Công ty mang đi tiêu thụ. T, C, H4, K đi bộ đến cửa xưởng cắt xẻ lấy được 01 cuộn đề xê sau đó tiếp tục đi đến xưởng Đột số 2 lấy được 02 cuộc dây Inox. Tại đây, T trực tiếp dừng tay điều khiển cẩu trục nhấc 01 cuộn thép cán nóng có trọng lượng hơn 500kg cho lên thùng xe ba bánh mà T2 vừa gọi được, số vật tư trên, C thỏa thuận bán luôn cho người đàn ông điều khiển xe ba bánh (hiện chưa rõ nhân thân lai lịch) được số tiền 3.600.000đ (Ba triệu sáu trăm nghìn đồng). Sau khi nhận tiền, C đưa lại cho T2. Tại phòng trực T2 chia số tiền trên cho 06 người mỗi người được 600.000đ (Sáu trăm nghìn đồng). Sau đó 06 người đi trực chốt như bình thường.

Ngày 09/10/2019, Công an Phường Sài Đồng, Quận Long Biên, Hà Nội nhận được tin báo của Công ty CP K2 về việc bị mất một số vật tư gồm: 01 (một) cuộn thép cán nóng; 02 (hai) cuộn dây Inox; 01 (một) bó dây Đề xê (thép vụn) trị giá khoảng 26.000.000 đồng.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Nguyễn Văn T2, Chu Trọng T, Cao Bá C, Nguyễn Thanh Đ, Nguyễn Bá H4, Bùi Nho K đã khai nhận T2 bộ hành vi trộm cắp nêu trên. Ngoài ra cơ quan còn tạm giữ

- Số tiền 26.061.550 đồng do Nguyễn Văn T2, Chu Trọng T, Nguyễn Thanh Đ, Nguyễn Bá H4, Bùi Nho K đã tự nguyện nộp để khắc phục hậu quả.

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5S màu trắng, lưng điện thoại dán màu xanh nước biển đã qua sử dụng; 01 (một) giấy chứng minh nhân dân của bị can Nguyễn Văn T2.

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia X2 màu đen đã qua sử dụng; 01 (một) giấy chứng minh nhân dân của bị can Cao Bá C.

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 màu vàng đã qua sử dụng, 01 (một) giấy chứng minh nhân dân của bị can Nguyễn Thanh Đ.

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen đã qua sử dụng, 01 (một) giấy chứng minh nhân dân của bị can Nguyễn Bá H4.

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S màu vàng đã qua sử dụng của bị can Chu Trọng T .

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh tím đã qua sử dụng, 01 (một) chiếc mũ lưỡi trai màu ghi xám của công ty CP K2 đã qua sử dụng của bị can Bùi Nho K.

Tại Kết luận số 30/KL-HS của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự quận Long Biên kết luận trị giá tài sản như sau:

- 01 Cuộn thép dài JSH 440W 3,2xl54xC trọng lượng 532 kg trị giá 9.630.796 đồng;

- 02 cuộn Dây Inox 201 fi 4.5 trọng lượng 402 kg trị giá 15.166.254 đồng;

- 01 Bó Đề xê (thép vụn) trọng lượng 281 kg trị giá 1.264.500 đồng.

Tổng trị giá các tài sản bị chiếm đoạt là 26.061.550đ (Hai mươi sáu triệu không trăm sáu mươi mốt nghìn năm trăm năm mười đồng).

Ngày 16/4/2020 Công an quận Long Biên đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 50: Trao trả số tiền 26.061.550 đồng cho Công ty CP K2 (do ông Phạm Văn P được ủy quyền). Công ty CP K2 đã nhận lại số tiền tương đương với giá trị tài sản bị trộm cắp, không đề nghị gì về dân sự và đề nghị xử lý theo quy định của pháp luật. Ngoài ra cơ quan điều tra trao trả 04 chứng minh thư nhân dân thu giữ của các bị can Nguyễn Văn T2, Cao Bá C, Nguyễn Thanh Đ, Nguyễn Bá H4.

Đối với người đàn ông điều khiển xe ba gác tiêu thụ số tài sản các bị can đã chiếm đoạt được nói trên. Các bị can khai không biết tên tuổi địa chỉ cụ thể nên cơ quan điều tra không xác minh làm rõ được và không thu hồi được vật chứng của vụ án.

Tại bản cáo trạng số 131/CT-VKS ngày 28/4/2020 của Viện Kiểm Sát nhân dân quận Long Biên, thành phố Hà Nội: Truy tố Nguyễn Văn T2, Cao Bá C, Chu Trọng T, Nguyễn Thanh Đ, Nguyễn Bá H4, Bùi Nho K về tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017;

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên thực hành quyền công tố tại phiên tòa, sau khi phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1,2 Điều 51; Điều 65; Điều 17; Điều 58; Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Xử phạt:

Bị cáo Nguyễn Văn T2 từ 14 -16 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản”. Hạn thử thách 28-32 tháng.

Bị cáo Chu Trọng T từ 10 -12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản”. Hạn thử thách 20-24 tháng.

Bị cáo Cao Bá C từ 10 -12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản”. Hạn thử thách 20-24 tháng.

Bị cáo Nguyễn Thanh Đ từ 8 -10 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản”. Hạn thử thách 16-20 tháng.

Bị cáo Bùi Nho K từ 8 -10 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản”. Hạn thử thách 16-20 tháng.

Bị cáo Nguyễn Bá H4 từ 8 -10 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản”. Hạn thử thách 16-20 tháng.

Về hình phạt bổ sung: Miễn phạt tiền đối với các bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) chiếc mũ lưỡi trai màu ghi xám của công ty CP K2 đã qua sử dụng.

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn T2 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5S màu trắng, lưng điện thoại dán màu xanh nước biển đã qua sử dụng; Cao Bá C 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia X2 màu đen đã qua sử dụng; Nguyễn Thanh Đ01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 màu vàng đã qua sử dụng; Nguyễn Bá H4 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen đã qua sử dụng; Chu Trọng T01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S màu vàng đã qua sử dụng; Bùi Nho K 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh tím đã qua sử dụng.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn T2, Cao Bá C, Chu Trọng T, Nguyễn Thanh Đ, Nguyễn Bá H4, Bùi Nho K đã thừa nhận T2 bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung đã nêu trong bản Cáo trạng; nội dung phân tích, luận tội của kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa, không bị oan sai.

Lời nói sau cùng: Các bị cáo nhận thức được hành vi phạm tội của mình là vi phạm pháp luật hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho các bị cáo được hưởng mức hình phạt nhẹ nhất để có điều kiện cải tạo ngoài xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Long Biên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn T2, Cao Bá C, Chu Trọng T, Nguyễn Thanh Đ, Nguyễn Bá H4, Bùi Nho K không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, vật chứng đã thu giữ, lời khai của người bị hại cùng các tài liệu điều tra khác có trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 22h00’ ngày 04/8/2019 tại khu vục xưởng 1, 2 Công ty CP K2 thuộc phường Sài Đồng, Quận Long Biên, Thành phố Hà Nội, Nguyễn Văn T2, Cao Bá C, Chu Trọng T, Nguyễn Thanh Đ, Nguyễn Bá H4, Bùi Nho K cùng thống nhất thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt 01 (một) cuộn thép cán nóng; 02 (hai) cuộn dây Inox; 01 (một) bó dây Đề xê (thép vụn) của công ty CP K2 với tổng trị giá tài sản là 26.061.550 đồng. Các bị cáo Nguyễn Văn T2, Cao Bá C, Chu Trọng T, Nguyễn Thanh Đ, Nguyễn Bá H4, Bùi Nho K có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, phạm tội với lỗi có ý trực tiếp đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản được pháp luật hình sự bảo vệ; Hành vi của bị cáo Nguyễn Văn T2, Cao Bá C, Chu Trọng T, Nguyễn Thanh Đ, Nguyễn Bá H4, Bùi Nho K đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017;

Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên, thành phố Hà Nội truy tố bị cáo Nguyễn Văn T2, Cao Bá C, Chu Trọng T, Nguyễn Thanh Đ, Nguyễn Bá H4, Bùi Nho K về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ, và đúng quy định của pháp luật.

Vụ án có tính chất đồng phạm, bị cáo Chu Trọng T là người khởi xướng; bị cáo Nguyễn Văn T2 là người phân công Đ ra trực chốt trước cổng và gọi xe ba bánh chở tài sản trộm cắp; bị cáo Cao Bá C là người thỏa thuận bán tài sản trộm cắp; Các bị cáo T, C, H4, K là người thực hành tích cực để lấy tài sản. Do vậy cần áp dụng hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của từng bị cáo.

[2]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo Nguyễn Văn T2, Cao Bá C, Chu Trọng T, Nguyễn Thanh Đ, Nguyễn Bá H4, Bùi Nho K không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[3]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, i,s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Người bị hại là Công ty CP K2 có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo; Ngoài ra bị cáo Nguyễn Văn T2 bị tai nạn lao động với tỷ lệ suy giảm khả năng lao động là 35% được hưởng bảo hiểm xã hội hàng tháng, ông Nguyễn Văn Bình (bố đẻ bị cáo T2) được tặng kỷ niệm chương; Ông Chu Trọng Phiêu (bố bị cáo T) được Chính phủ tặng H4 chương chiến thắng hạng nhất; Ông Cao Văn Tâng (bố bị cáo C) được Hội đồng Nhà nước tặng huân chương kháng chiến hạng nhì; Bà Vũ Thị Hồng (mẹ bị cáo H4) được Nhà nước tặng huân chương kháng chiến hạng nhất là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017

[4]. Về nhân thân: Các bị cáo chưa có tiền án, tiền sự có nơi cư trú ổn định rõ ràng.

[5]. Về quyết định hình phạt: Sau khi xem xét tính chất mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, xét thấy hành vi phạm tội của các bị cáo phải xử lý nghiêm khắc để các bị cáo lấy đó làm bài học rút kinh nghiệm cho bản thân nhưng không nhất thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội vẫn có tác dụng giáo dục để bị cáo sửa chữa những sai lầm của mình có cơ hội trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.

[6]. Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo không có thu nhập ổn định, không có khả năng kinh tế nên miễn hình phạt bổ sung phạt tiền đối với các bị cáo.

[7]. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại là Công ty CP K2 đã nhận khoản tiền khắc phục hậu quả tương đương giá trị số tài sản bị trộm cắp, không yêu cầu gì khác về dân sự nên Hội đồng xét xử không phải xét.

[8]. Về xử lý vật chứng: Cơ quan CSĐT - Công an quận Long Biên đã ra quyết định xử lý vật chứng trao trả số tiền 26.061.550 đồng để khắc phục hậu quả cho Công ty CP K2 là có căn cứ pháp luật.

01 (một) chiếc mũ lưỡi trai màu ghi xám của công ty CP K2 đã qua sử dụng không có giá trị nên thấy cần tịch thu tiêu hủy.

- Các điện thoại thu giữ của bị cáo gồm 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5S màu tráng, lưng điện thoại dán màu xanh nước biển đã qua sử dụng; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia X2 màu đen đã qua sử dụng; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 màu vàng đã qua sử dụng; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen đã qua sử dụng; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S màu vàng đã qua sử dụng; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh tím đã qua sử dụng không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho các bị cáo nhưng tạm giữ để đảm bảo việc thi hành án.

[9]. Về án phí: Căn cứ 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016; Khoản 1 Mục I, Danh mục án phí lệ phí Tòa án: Các bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm

[10]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1,2 Điều 51; Điều 65; Điều 17; Điều 58; Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

Căn cứ Điều 106; Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

Căn cứ Điều 23, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Khoản 1 Mục I, Danh mục án phí lệ phí Tòa án ban hành kềm theo Nghị quyết:

1. Xử phạt: Bị cáo Chu Trọng T 16 (mười sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản”. Hạn thử thách 32 (ba mươi hai) tháng kể từ ngày tuyên án.

2. Bị cáo Nguyễn Văn T2 15 (mười lăm) tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản”. Hạn thử thách 30 (ba mươi) tháng kể từ ngày tuyên án.

3. Xử phạt: Bị cáo Cao Bá C 15 (mười lăm) tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản”. Hạn thử thách 30 (ba mươi) tháng kể từ ngày tuyên án.

4. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thanh Đ 12 (mười hai) tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản”. Hạn thử thách 24 (hai mươi bốn) tháng kể từ ngày tuyên án.

5. Xử phạt: Bị cáo Bùi Nho K 12 (mười hai) tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản”. Hạn thử thách 24 (hai mươi bốn) tháng kể từ ngày tuyên án.

6. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Bá H4 11 (mười một) tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản”. Hạn thử thách 22 ( hai mươi hai) tháng kể từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo Nguyễn Nguyễn Văn T2 cho Ủy ban nhân dân xã Long Hưng, Huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên; Giao bị cáo Cao Bá C cho Ủy ban nhân dân phường Thạch Bàn, Quận Long Biên, Thành Phố Hà Nội; Giao bị cáo Chu Trọng T cho Ủy ban nhân dân phường Phúc Lợi, Quận Long Biên, Thành Phố Hà Nội; Giao bị cáo Nguyễn Thanh Đ cho Ủy ban nhân dân xã Cổ Bi, Huyện Gia Lâm, Thành Phố Hà Nội; Giao bị cáo Nguyễn Bá H4 cho Ủy ban nhân dân xã Phù Đổng, Huyện Gia Lâm, Thành Phố Hà Nội; Giao bị cáo Bùi Nho K cho Ủy ban nhân dân xã Phú Thị, Huyện Gia Lâm, Thành Phố Hà Nội giám sát giáo dục trong thời hạn thử thách của bản án. Truờng hợp bị cáo có thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Về hình phạt bổ sung: Miễn phạt tiền đối với các bị cáo.

Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) chiếc mũ lưỡi trai màu ghi xám của công ty CP K2 đã qua sử dụng.

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn T2 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5S màu trắng, lưng điện thoại dán màu xanh nước biển đã qua sử dụng; Cao Bá C 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia X2 màu đen đã qua sử dụng; Nguyễn Thanh Đ01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 màu vàng đã qua sử dụng; Nguyễn Bá H4 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen đã qua sử dụng; Chu Trọng T01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S màu vàng đã qua sử dụng; Bùi Nho K 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh tím đã qua sử dụng.

(Các vật chứng hiện đang lưu giữ tại kho vật chứng chi cục thi hành án quận Long Biên theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 07/5/2020)

Về án phí: Mỗi bị cáo Nguyễn Văn T2, Cao Bá C, Chu Trọng T, Nguyễn Thanh Đ, Nguyễn Bá H4, Bùi Nho K phải nộp 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng tiền án phí hình sụ sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

246
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 122/2020/HSST ngày 28/05/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:122/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Long Biên - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;