Bản án 122/2020/HNGĐ-ST ngày 16/06/2020 về tranh chấp xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÁI BÈ, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 122/2020/HNGĐ-ST NGÀY 16/06/2020 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN

Ngày 16 tháng 6 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang xét xử công khai vụ án thụ lý số 27/2020/TLST-HNGĐ ngày 14 tháng 01 năm 2020 về việc “Xin ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 103/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 08 tháng 5 năm 2020 giữa các đương sự:

* Ngu yên đơn : Chị Nguyễn Thị D, sinh năm 1994 (có mặt).

Địa chỉ: Ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

* Bị đ ơn : Anh Lê Xuân N, sinh năm 1988 (vắng mặt).

ĐKHKTT: Ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện ngày 30/12/2019 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn chị Nguyễn Thị D trình bày:

- Chị với anh Lê Xuân N cưới nhau năm 2015, có đăng ký kết hôn tại UBND xã B, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang. Anh chị chung sống hạnh phúc thời gian đầu đến khoảng tháng 6/2019 thì thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do bất đồng quan điểm, không hợp tính tình, vợ chồng thường xãy ra xung đột, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc nên đã ly thân từ đó đến nay không hàn gắn được tình cảm vợ chồng. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, yêu cầu Tòa án giải quyết:

-Về tình cảm: Cho chị được ly hôn với anh Lê Xuân N.

- Về con chung: Anh chị có hai con chung tên Lê Ngọc D, sinh ngày 26/3/2015 và Lê Hạo N, sinh ngày 21/3/2017. Khi ly hôn chị yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung tên Diệp. Chị đồng ý để anh N trực tiếp nuôi con chung tên Nam, chị không cấp dưỡng nuôi con do anh N nuôi dưỡng và cũng không yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con do chị nuôi dưỡng.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

* Bị đơn anh Lê Xuân N dù được Tòa án tống đạt thông báo thụ lý vụ án về yêu cầu xin ly hôn của chị D và triệu tập hợp lệ đến Tòa để giải quyết vụ án nhiều lần, nhưng anh N vẫn vắng mặt không lý do và cũng không có ý kiến gì về việc vắng mặt của anh cũng như yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị D.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và sau khi nghe đương sự trình bày tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng dân sự: Chị D có đơn đề nghị Tòa án giải quyết việc hôn nhân của chị với anh Lê Xuân N có địa chỉ tại ấp A, xã B, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang. Theo quy định tại khoản 1 Điều 28; Điểm a, khoản 1 Điều 35; Điểm a, khoản 1, Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang.

- Đối với anh Lê Xuân N dù được Tòa án thông báo thụ lý vụ án về yêu cầu xin ly hôn của chị D và được triệu tập hợp lệ đến Tòa để giải quyết vụ án nhiều lần, nhưng anh N vẫn vắng mặt không lý do và cũng không có ý kiến gì về việc vắng mặt của anh, cũng như yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị D. Do đó Tòa án căn cứ điểm b, khoản 2, Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vắng mặt anh N.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị D và anh N cưới nhau năm 2015, có đăng ký kết hôn tại UBND xã B, huyện Cái Bè. Anh chị chung sống hạnh phúc đến tháng 6/2019 thì ly thân cho đến nay. Theo chị D khai là do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, tính tình không hợp nhau thường xuyên phát sinh mâu thuẫn, vợ chồng thường xãy ra xung đột nên cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc. Nay chị không còn tình cảm với anh N nữa nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh N.

Xét thấy chị D và anh N cưới nhau năm 2015 có đăng ký kết hôn nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp. Anh chị chung sống đến tháng 6/2019 thì ly thân, từ đó đến nay anh chị cũng không có biện pháp gì hàn gắn tình cảm vợ chồng.

Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay chị D cương quyết ly hôn, còn anh N vắng mặt không lý do và cũng không có ý kiến gì về yêu cầu khởi kiện của chị D, xem như anh từ bỏ việc bảo vệ quyền lợi cho anh. Nhận thấy mâu thuẫn trong đời sống vợ chồng của anh chị đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài. Do đó Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị D cho chị được ly hôn với anh N là phù hợp quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

- Về con chung: Anh chị có hai con chung tên Lê Ngọc D, sinh ngày 26/3/2015 và Lê Hạo N, sinh ngày 21/3/2017. Khi ly hôn chị yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung tên D; Chị đồng ý để anh N trực tiếp nuôi con chung tên N, chị không cấp dưỡng nuôi con do anh N nuôi dưỡng và cũng không yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con do chị nuôi dưỡng. Còn anh N cũng không có ý kiền gì về con chung, nếu anh chị ly hôn. Nhận thấy từ khi ly thân đến nay chị D là người trực tiếp nuôi con chung tên D và anh N đã trực tiếp nuôi con chung tên N đã ổn định. Qua xác nhận của chính quyền địa phương, hiện anh chị đang trực tiếp nuôi con chung và phát triển bình thường. Do đó Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu này của chị D là giao con chung tên Diệp cho chị D trực tiếp nuôi dưỡng. Giao con chung anh chị tên Nam cho anh N trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình.

- Về việc cấp dưỡng nuôi con: Do chị D và anh N không yêu cầu cấp dưỡng, nên Hội đồng xét xử không đặc ra xem xét. Nếu sau này có phát sinh về việc cấp dưỡng nuôi con thì các đương sự được quyền khởi kiện bằng vụ kiện khác.

- Về tài sản chung, nợ chung: Chị D khai không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, nếu sau này có phát sinh tranh chấp thì được quyền khởi kiện bằng vụ kiện khác.

- Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị D là nguyên đơn nên phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình.

- Căn cứ khoản 1, Điều 28; điểm a, khoản 1, Điều 35; điểm a, khoản 1, Điều 39; khoản 4, Điều 147; điểm b, khoản 2, Điều 227; khoản 3, Điều 228 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Xử:

1. Về quan hệ vợ chồng Nguyễn Thị D.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị - Cho chị Nguyễn Thị D được ly hôn với anh Lê Xuân N.

2. Về con chung: Giao con chung của anh chị:

- Tên Lê Ngọc D, sinh ngày 26/3/2015 cho chị D trực tiếp nuôi dưỡng.

- Tên Lê Hạo N, sinh ngày 21/3/2017 cho anh N trực tiếp nuôi dưỡng. Anh, chị không phải cấp dưỡng nuôi con.

Anh, chị được quyền thăm nom, chăm sóc con chung sau ly hôn theo quy định pháp luật.

3. Về án phí : Chị D phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0002966, ngày 08/01/2020 của Cục thi hành án dân sự huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang.

4. Về quyền kháng cáo: Chị D được quyền được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với anh N được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật, để Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử phúc thẩm lại vụ án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 122/2020/HNGĐ-ST ngày 16/06/2020 về tranh chấp xin ly hôn

Số hiệu:122/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cái Bè - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;