Bản án 122/2019/HNGĐ-ST ngày 15/11/2019 về tranh chấp thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN U MINH, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 122/2019/HNGĐ-ST NGÀY 15/11/2019 VỀ TRANH CHẤP THAY ĐỔI NGƯỜI TRỰC TIẾP NUÔI CON SAU KHI LY HÔN

Ngày 15 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện U Minh, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 214/2019/TLST-HNGĐ ngày 18 tháng 7 năm 2019 về việc “Tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 140/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 30 tháng 10 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trần Diễm M, sinh năm 1994 (có mặt).

Đa chỉ cư trú: Ấp 4, xã K, huyện U, tỉnh Cà Mau

- Bị đơn: Anh Lê Văn A, sinh năm 1984 (có mặt).

Đa chỉ cư trú: Ấp 19, xã K, huyện U, tỉnh Cà Mau.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 18/7/2019, biên bản hòa giải ngày 09/8/2019 và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Trần Diễm M trình bày:

Tại Bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 74/2016/HNGĐ-ST ngày 23/8/2016 của Tòa án nhân dân huyện U Minh, tỉnh Cà Mau tuyên xử anh Lê Văn A được ly hôn với chị, tiếp tục giao con chung là cháu Lê Gia H sinh ngày 12/3/2013 cho anh Văn A nuôi dưỡng, chị có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được cản trở. Hiện nay anh Văn A đã có vợ và con riêng, không trực tiếp nuôi cháu H mà để cho mẹ anh là bà Nguyễn Thị C và chị ruột là Lê Thị B trực tiếp nuôi, tuy nhiên bà C đã lớn tuổi, thường xuyên bị bệnh, chị B bị khuyết tật không đi lại được nên cháu H không có người quan tâm, chăm sóc. Hiện nay chị làm nghề may và làm móng tại nhà, có thu nhập ổn định, nhà chị lại gần trường học nên chị có đủ điều kiện chăm sóc cháu H. Do đó chị yêu cầu Tòa án xem xét cho chị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu H.

Tại biên bản hòa giải ngày 09/8/2019 và tại phiên tòa, bị đơn là anh Lê Văn A trình bày: Anh thống nhất với lời trình bày của chị M về việc anh và chị M đã ly hôn theo bản án của Tòa án. Hiện nay anh đã lập gia đình và có con được khoảng 15 tháng tuổi nhưng anh vẫn trực tiếp nuôi dưỡng cháu H. Do anh thường xuyên phải đi làm tạo thu nhập, nhà lại ở bên sông không tiện đi lại nên cháu H thường ở nhà của mẹ anh. Về điều kiện kinh tế, anh có phần đất làm vuông và trồng rừng, đủ khả năng nuôi dưỡng cháu H. Từ khoảng đầu tháng 9 năm nay, cháu H bắt đầu vào học lớp 1 tại trường Tiểu học Đào Duy Từ ở gần nhà, cây rừng cũng đã trồng xong, anh mới đi Bình Dương làm công việc thời vụ để kiếm thêm tiền ăn Tết, đến Tết Nguyên đán anh cũng sẽ về quê tìm công việc gần nhà, cùng với việc làm vuông, thu hoạch rừng để chăm lo cho cháu H. Hiện nay cháu H vẫn phát triển bình thường, đã nhận thức được sự việc nên không muốn sống với chị M, anh cũng không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của chị M.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu quan điểm: Về tố tụng, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, các đương sự đã thực hiện đúng về quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định pháp luật. Về nội dung, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, nguyên đơn phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về quan hệ pháp luật: Tranh chấp giữa các đương sự được xác định là tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện U Minh theo quy định tại khoản 3 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung: Xét yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con của nguyên đơn thấy rằng trong thời kỳ hôn nhân, do điều kiện kinh tế mà anh Văn A và chị M phải đi làm xa nên từ lúc 12 tháng tuổi thì cháu H đã được bà nội và cô ruột nuôi dưỡng. Sau khi anh Văn A và chị M ly hôn thì anh Văn A là người trực tiếp nuôi dưỡng cháu H. Việc cháu H thường xuyên ở nhà bà nội và cô ruột là nhằm mục đích tạo điều kiện sống tốt nhất cho cháu H do nhà của bà C nằm trên đường lộ lại gần trường học nên thuận tiện về mọi mặt. Hiện nay cháu H vẫn đang phát triển bình thường về thể chất và khả năng nhận thức, cháu đang học lớp 1 tại trường Tiểu học Đào Duy Từ cách nhà của bà C khoảng 100 mét. Chị M cho rằng anh Văn A có vợ và con riêng nên không còn đủ điều kiện trực tiếp nuôi dưỡng cháu H là không có căn cứ theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình, đồng thời chị M cũng không xuất trình được tài liệu chứng cứ chứng minh chị có điều kiện nuôi con tốt hơn anh Văn A để Tòa án xem xét. Chị M trình bày gia đình Văn A gây cản trở, khó khăn khi chị thăm nom cháu H nhưng không xuất trình được tài liệu, chứng cứ chứng minh. Do đó không có cơ sở xác định anh Văn A vi phạm nghĩa vụ của người trực tiếp nuôi con đối với người không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử không có căn cứ chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Diễm M về việc yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi dưỡng cháu Lê Gia H. Đồng thời xét thấy đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ nên chấp nhận.

[4] Về án phí: Chị M phải chịu án phí sơ thẩm 300.000 đồng theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 28, khoản 1 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các điều 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 3 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,

Tuyên xử:

- Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Diễm M về việc yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con chung là cháu Lê Gia H (giới tính: nam) sinh ngày 12/3/2013.

- Về án phí: Chị Trần Diễm M phải chịu án phí sơ thẩm 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), chưa nộp.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Chị Trần Diễm M và anh Lê Văn A có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

198
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 122/2019/HNGĐ-ST ngày 15/11/2019 về tranh chấp thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn

Số hiệu:122/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện U Minh - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;