TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH TÂY NINH
BẢN ÁN 12/2024/HS-ST NGÀY 25/01/2024 VỀ TỘI BUÔN BÁN HÀNG CẤM
Ngày 25 tháng 01 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh T xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 108/2023/TLST-HS ngày 05 tháng 12 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 10/2024/QĐXXST - HS ngày 11 tháng 01 năm 2024 đối với bị cáo:
Phạm Văn N, sinh năm 1993 tại tỉnh T; hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: ấp Tua Hai, xã Đồng Khởi, huyện C, tỉnh T; nghề nghiệp: làm mướn; trình độ văn hóa: 05/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Đình C (đã chết) và bà Trịnh Thị V, sinh năm: 1971; vợ, con chưa có; tiền án; tiền sự: không; nhân thân: Ngày 28/01/2023 bị Công an huyện C ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 06/QĐ-XPHC, xử phạt số tiền 7.500.000 đồng về hành vi “Vận chuyển hàng cấm”, nộp phạt ngày 09/02/2023, chưa đủ thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 10 tháng 11 năm 2023 cho đến nay; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào lúc 02 giờ 00 phút ngày 08/9/2023, Phạm Văn N điều khiên xe mô tô gắn biến số 62D1-xxxxx đi từ nhà tại ấp Tua Hai, xã Đồng Khởi, huyện C, tỉnh T đến khu vực xã Hoà Hiệp, huyện Tân Biên, tỉnh T gặp người đàn ông tên Tâm (không rõ họ tên và địa chỉ cụ thể) mua 340 bao thuốc lá điều nhập lậu, gồm: 310 bao thuốc lá điều nhãn hiệu Hero và 30 bao thuốc lá điều nhãn hiệu Jet, với số tiền 5.160.000 đồng để về bán lại cho các cửa hàng tạp hoá nhằm thu lợi. Đến khoảng 03 giờ 00 phút cùng ngày, N điều khiển xe mô tô biển số 62D1-xxxxx vận chuyển 340 bao thuốc lá điều nhập lậu đến khu vực thuộc ấp Phước Lợi, xã Phước Vinh, huyện C, tỉnh T thì bị Công an huyện C, tỉnh T phát hiện bắt giữ. Thu giữ 01 xe mô tô có gắn biển số 62D1-xxxxx và 310 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu Hero và 30 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu Jet.
Trước đó ngày 28/01/2023, Phạm Văn N đã bị Công an huyện C xử phạt vi phạm hành chính 7.500.000 đồng, về hành vi “Vận chuyển hàng cấm”.
Đối với người tên Tâm bán thuốc lá điếu nhập lậu cho Phạm Văn N, do không rõ họ tên và địa chỉ nên tiếp tục điều tra làm rõ xử lý sau.
Kết luận giám định số: 1562/KL-KTHS ngày 19/10/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh T kết luận: số khung và số máy xe môtô nhãn hiệu SYM, màu xanh, biển số 62D1-xxxxx có số khung ?LKD?G01?LK*10????* (số khung bị đục xóa, dấu ? không xác định được số nguyên thủy), số máy VMEVA2025215 không bị đục xoá.
Quá trình xác minh điều tra đối với xe mô tô biển số 62D1-xxxxx do bà Phạm Thị H ngụ ấp Bàu Nâu, xã Vĩnh Trị, huyện V, tỉnh A đứng tên đăng ký, có số khung RLSBE4DY0B0100787, số máy E456300787. Đối chiếu với xe mô tô có gắn biển số 62D1-xxxxx tịch thu của bị cáo N thì xe mô tô có số khung bị đục xoá, số máy VMEVA2025215. Bị cáo N khai nhận mua không có giấy tờ, xe chỉ gắn biển số 62D1-xxxxx do đó không có căn cứ xác định xe mô tô này là của bà Phạm Thị H.
Qua xác minh bị cáo Phạm Văn N không có tài sản nên không tiến hành kê biên.
Cáo trạng số 106/CT-VKSCT, ngày 30 tháng 11 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện C đã truy tố bị cáo Phạm Văn N về tội “Buôn bán hàng cấm” theo quy định tại điểm e khoản 1 Điều 190 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa:
- Đại diện Viện kiểm sát huyện C, tỉnh T vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Phạm Văn N phạm tội “Buôn bán hàng cấm” theo điểm e khoản 1 Điều 190 Bộ luật Hình sự và đề nghị Hội đồng xét xử:
+ Căn cứ điểm e khoản 1 Điều 190; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Phạm Văn N từ 12 tháng đến 18 tháng tù giam. Đề nghị miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
+ Về xử lý vật chứng: căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu huỷ 340 bao thuốc lá nhập lậu; tịch thu sung vào ngân sách nhà nước phương tiện bị cáo thực hiện hành vi phạm tội, còn giá trị sử dụng là 01 xe mô tô biển số 62D1-xxxxx, nhãn hiệu SYM - Lời nói sau cùng của bị cáo: bị cáo đã nhận thức được việc làm của bị cáo là sai, mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện C, Viện kiểm sát nhân dân huyện C, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Văn N đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, phù hợp với kết luận giám định và các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, có cơ sở xác định:
Khoảng 03 giờ 00 phút, ngày 08/9/2023 bị cáo Phạm Văn N đã có hành vi điều khiển xe mô tô biển số 62D1-xxxxx vận chuyển 340 bao thuốc lá điếu nhập lậu, khi đến khu vực thuộc ấp Phước Lợi, xã Phước Vinh, huyện C, tỉnh T thì bị Công an huyện C, tỉnh T phát hiện bắt giữ. Thu giữ của bị cáo Phạm Văn N 310 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu Hero, 30 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu Jet và 01 xe mô tô có gắn biển số 62D1- xxxxx.
Mặc dù số lượng thuốc lá điếu nhập lậu không đủ để truy tố bị cáo nhưng ngày 28/01/2023, bị cáo Phạm Văn N đã bị Công an huyện C, tỉnh T xử phạt vi phạm hành chính 7.500.000 đồng về hành vi “Vận chuyển hàng cấm” cũng là thuốc lá điếu nhập lậu. Tính đến ngày 08/9/2023 là ngày bị cáo bị bắt thì bị cáo chưa đủ thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính. Do đó hành vi của bị cáo Phạm Văn N đã đủ yếu tố cấu thành tội “Buôn bán hàng cấm”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm e khoản 1 Điều 190 Bộ luật Hình sự. Bản Cáo trạng số 106/CT – VKSCT ngày 30/11/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh T truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội:
Vụ án mang tính chất nghiêm trọng. Bị cáo Phạm Văn N là người đã thành niên, có đầy đủ năng lực hành vi dân sự. Hành vi của bị cáo Phạm Văn N đã trực tiếp xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước, chế độ độc quyền trong quản lý, sản xuất, kinh doanh một số loại hàng cấm trong đó có thuốc lá điếu do nước ngoài sản xuất, đồng thời gây mất trật tự trị an tại địa phương. Khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo biết rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện, nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự do chính hành vi của mình gây ra.
[4] Khi quyết định hình phạt, cần xem xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân đối với bị cáo.
Tình tiết tăng nặng: không có.
Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo Phạm Văn N thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Về nhân thân: Bị cáo Phạm Văn N đã từng bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Vận chuyển hàng cấm là thuốc lá điếu nhập lậu nay lại tiếp tục phạm tội điều đó thể hiện nhân thân bị cáo xấu.
[5] Hình phạt áp dụng:
Bị cáo có 01 tiền sự về hành vi “Vận chuyển hàng cấm là thuốc lá điếu nhập lậu” đã nộp phạt nhưng chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính nhưng lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, điều này thể hiện ý thức bị cáo xem thường pháp luật. Do đó, xét thấy cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có đủ điều kiện cải tạo, giáo dục bị cáo, đồng thời có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.
[6] Về hình phạt bổ sung:
Do bị cáo Phạm Văn N không có tài sản và xét thấy hình phạt tù có thời hạn là đã thích đáng với hành vi phạm tội của bị cáo nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[7] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47, 48 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:
- Tịch thu tiêu hủy vật chứng vụ án là hàng cấm gồm:
+ Số lượng 30 (Ba mươi) bao thuốc lá nhãn hiệu JET, còn nguyên vẹn.
+ Số lượng 310 (Ba trăm mười) bao thuốc lá nhãn hiệu HERO, còn nguyên vẹn.
- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước phương tiện bị cáo thực hiện hành vi phạm tội, còn giá trị sử dụng gồm:
01 (một) xe mô tô biển số 62D1-xxxxx, nhãn hiệu SYM, màu xanh, dung tích xi lanh: 110cc, số khung bị đục xóa, số máy: VMEVA 2025215, đã qua sử dụng.
[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định theo các Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Phạm Văn N phạm tội “Buôn bán hàng cấm”.
Căn cứ điểm e khoản 1 Điều 190; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự:
Xử phạt bị cáo Phạm Văn N 01 (một) năm tù về tội “Buôn bán hàng cấm”. Thời gian chấp hành án phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án.
2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:
- Tịch thu tiêu hủy:
+ Số lượng 30 (Ba mươi) bao thuốc lá nhãn hiệu JET, còn nguyên vẹn.
+ Số lượng 310 (Ba trăm mười) bao thuốc lá nhãn hiệu HERO, còn nguyên vẹn.
- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước: 01 (một) xe mô tô biển số 62D1- xxxxx, nhãn hiệu SYM, màu xanh, dung tích xi lanh: 110cc, số khung bị đục xóa, số máy: VMEVA 2025215, đã qua sử dụng.
(Các vật chứng đang được tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, tỉnh T theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 04/12/2023).
3. Về án phí: bị cáo Phạm Văn N phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định theo các Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.
4. Về quyền kháng cáo: bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 12/2024/HS-ST về tội buôn bán hàng cấm
Số hiệu: | 12/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Tây Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/01/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về