TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH SÓC TRĂNG
BẢN ÁN 12/2023/DS-ST NGÀY 31/03/2023 VỀ TRANH CHẤP YÊU CẦU TUYÊN BỐ HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÔ HIỆU, ĐÒI LẠI QUYỀN SỬ DỤNG
Ngày 31 tháng 3 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 94/2020 TLST-DS ngày 29 tháng 12 năm 2020 về tranh chấp yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu, đòi lại quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 126/2022/QĐXXST-DS ngày 29 tháng 9 năm 2022 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Thanh L, sinh năm 1950; Địa chỉ cư trú: Ấp B, thị trấn L, huyện L, tỉnh Sóc Trăng. (có mặt) - Bị đơn:
1. Ông Nguyễn Hoàng N, sinh năm 1975; Địa chỉ cư trú: Số C, ấp T, xã H, huyện T, tỉnh Vĩnh Long. (có mặt) 2. Bà Nguyễn Thị Ngọc D. sinh năm 1985: Địa chỉ cư trú: Số C, ấp T, xã H, huyện T, tỉnh Vĩnh Long. (vắng mặt) - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ủy ban nhân dân huyện C, tỉnh Sóc Trăng; Địa chỉ: Ấp C, thị trấn C, huyện C, tỉnh Sóc Trăng;
Người đại diện hợp pháp: Ông Lữ Duy T - Trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường huyện C (Quyết định ủy quyền số 167/QĐ-UBND ngày 15 tháng 02 năm 2023); (vắng mặt)
2. Ông Nguyễn Văn N1, sinh năm 1967; Địa chỉ: Ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng; (vắng mặt)
3. Bà Võ Lê Hoàng Diễm C, sinh năm 1974; Địa chỉ: Ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng; (vắng mặt)
4. Ông Nguyễn Văn Ú, sinh năm 1977; Địa chỉ: Ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng; (vắng mặt)
5. Bà Viên Thị Kiều D1, sinh năm 1985; Địa chỉ: Ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng; (vắng mặt)
6. Ông Lương Thanh T1, sinh năm 1978; Địa chỉ: Ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng; (vắng mặt)
7. Bà Võ Thị Hồng N2, sinh năm 1978; Địa chỉ: Ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng; (vắng mặt)
8. Ông Đặng Văn Mười M; Địa chỉ: Ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng; (vắng mặt)
9. Bà Nguyễn Thị Tuyết H, sinh năm 1978; Địa chỉ: Ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng; (vắng mặt)
10. Ông Đặng Văn M1, sinh năm 1973; Địa chỉ: Ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng; (vắng mặt)
11. Bà Phạm Thị Ngọc T2, sinh năm 1972; Địa chỉ: Ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng; (vắng mặt)
12. Ông Nguyễn Hùng T3, sinh năm 1958; Địa chỉ: Ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng; (vắng mặt)
13. Bà Nguyễn Hoàng N3, sinh năm 1948; Địa chỉ: Ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng; (vắng mặt)
14. Bà Nguyễn Thị H1, sinh năm 1964; Địa chỉ: Ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng; (vắng mặt)
15. Bà Nguyễn Thị V, sinh năm 1967; Địa chỉ: Ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng; (vắng mặt)
16. Bà Nguyễn Thị H2, sinh năm 1952; Địa chỉ: Ấp A, thị trấn L, huyện L, tỉnh Sóc Trăng; (vắng mặt)
17. Bà Nguyễn Thị Ánh N4, sinh năm 1952; Địa chỉ: Ấp B, thị trấn L, huyện L, tỉnh Sóc Trăng; (vắng mặt) Người đại diện theo ủy quyền của bà Nguyễn Hoàng N3, bà Nguyễn Thị H2, bà Nguyễn Thị Ánh N4, bà Nguyễn Thị H1, bà Nguyễn Thị V: Ông Nguyễn Thanh L, sinh năm 1950: Địa chỉ cư trú: Ấp B, thị trấn L, huyện L, tỉnh Sóc Trăng - Theo các Giấy ủy quyền ngày 18/9/2019, ngày 20/8/2019. (có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 17/11/2020 và đơn sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện ngày 18/12/2020, quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, ông Nguyễn Thanh L là nguyên đơn trình bày:
Ông Nguyễn Văn N5 (chết năm 1981) và bà Nguyễn Thị H3 (chết năm 2014) chung sống với nhau có 07 người con chung gồm : ông là Nguyễn Thanh L, bà Nguyễn Thị Hồng N6, ông Nguyễn Hùng T3, bà Nguyễn Thị H1, bà Nguyễn Thị V, bà Nguyễn Thị H2 và bà Nguyễn Thị Ánh N4.
Trước năm 1975, ông Nguyễn Văn N5 và bà Nguyễn Thị H3 có khai hoang phục hóa phần đất có diện tích 9.188m2, thuộc thửa 497, tờ bản đồ 06, tọa lạc tại ấp A, xã A (nay là ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng). ông N5 và bà H3 trực tiếp canh tác quản lý từ năm 1975 đến năm 1981 thì ông N5 chết, bà H3 quản lý sử dụng đến năm 2014 thì bà H3 chết.
Năm 1997, ông Nguyễn Hoàng N (con ruột của ông Nguyễn Thanh L) tự ý kê khai đăng ký quyền sử dụng đất thửa 497, tờ bản đồ số 06, diện tích 9.188m2 nêu trên. Hồ sơ được chuyển đến Ủy ban nhân dân huyện L ký giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 07/I.310250, qua xác minh được biết ông N chỉ là cháu tự ý đăng ký quyền sử dụng đất thuộc di sản của ông nội là sai với quy định pháp luật nên các anh em của ông thông báo với cơ quan quản lý không ký giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Hoàng N.
Trong thời gian quản lý sử dụng, bà H3 có hiến cho Nhà nước một phần diện tích đất trong thửa 497 nên trên để xây trường học, diện tích còn lại sau khi hiến đất là 5.611m2. Khi bà H3 hiến đất thì các anh em ông không ai biết.
Đến đầu năm 2014, bà H3 bệnh chết, không để lại di chúc và cũng chưa kê khai đăng ký quyền sử dụng đất và cùng chưa làm giấy cho tặng bất cứ người nào. Do điều kiện kinh tế khó khăn anh em ông phải đi làm ăn xa, vài tháng mới về đất nhà, lợi dụng khi anh em ông vắng mặt tại địa phương và ít quan tâm thông tin thửa đất trên nên ông Nguyễn Hoàng N lén lút làm đơn báo mất giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 497, tờ bản đồ 06, diện tích 5.611m2 nên vào ngày 18/10/2014. Ủy ban nhân dân huyện C ban hành Quyết định số 303 QĐ-UBND về việc hủy bỏ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 07/1.310250 do ông Nguyễn Hoàng N đứng tên nhưng trên thực tế không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 07/I.310250 do ông N đứng tên. Từ đó, ông Nguyễn Hoàng N làm đơn xin đăng ký lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 497, tờ bản đồ 06, diện tích 5.611m2 và được Ủy ban nhân dân huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BY 537671 cho ông Nguyễn Hoàng N vào ngày 27/5/2015 thành thửa 756, tờ bản đồ 06, diện tích 5.611m2, tọa lạc tại ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng.
Sau khi làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì ông Nguyễn Hoàng N còn chuyển nhượng phần đất nêu trên cho 05 người gồm:
- Ông Nguyễn Văn N1 diện tích 420,5m2, theo hồ sơ chuyển nhượng thành thửa đất số 765, tờ bản đồ số 06, tọa lạc tại ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng;
- Ông Nguyễn Văn Ú, diện tích 176m2, theo hồ sơ chuyển nhượng thành thửa đất số 761, tờ bản đồ số 06, tọa lạc tại ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng;
- Ông Lương Thanh T1, diện tích 420,5m2, theo hồ sơ chuyển nhượng thành thửa đất số 764, tờ bản đồ số 06, tọa lạc tại ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng;
- Ông Đặng Văn M1 Một, diện tích 465m2, theo hồ sơ chuyển nhượng thành thửa đất số 763, tờ bản đồ số 06, tọa lạc tại ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng;
- Ông Đặng Văn M1, diện tích 354m2, theo hồ sơ chuyển nhượng thành thửa đất số 762, tờ bản đồ số 06, tọa lạc tại ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng;
Việc ông N tự ý đăng ký cắp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tự ý chuyển nhượng các phần đất nêu trên là hoàn toàn không đúng quy định pháp luật.
Nay nguyên đơn ông Nguyễn Thanh L yêu cầu Tòa án giải quyết:
- Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn Hoàng N với ông Nguyễn Văn Ú đối với phần diện tích đất 176m2 thuộc thửa 761, tờ bản đồ số 06, đất tọa lạc tại ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng là vô hiệu.
- Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn Hoàng N với ông Đặng Văn M1 đối với phần diện tích đất 354m2 thuộc thửa 762, tờ bản đồ số 06, đất tọa lạc tại ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng là vô hiệu.
- Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn Hoàng N với ông Đặng Văn M1 Một đối với phần diện tích đất 465m2 thuộc thửa 763, tờ bản đồ số 06, đất tọa lạc tại ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng là vô hiệu.
- Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn Hoàng N với ông Lương Thanh T1 đối với phần diện tích đất 420,5m2 thuộc thửa 764, tờ bản đồ số 06, đất tọa lạc tại ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng là vô hiệu.
- Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn Hoàng N với ông Nguyễn Văn N1 đối với phần diện tích đất 420,5m2 thuộc thửa 765, tờ bản đồ số 06, đất tọa lạc tại ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng là vô hiệu.
- Buộc vợ chồng ông Nguyền Hoàng N và bà Nguyễn Thị Ngọc D cùng 05 hộ nhận chuyển nhượng từ vợ chồng ông Nguyễn Hoàng N và bà Nguyễn Thị Ngọc D là hộ ông Nguyễn Văn Ú, bà Viên Thị Kiều D1; hộ ông Đặng Văn M1 và bà Phạm Thị Ngọc T2, hộ ông Đặng Văn Mười M và bà Nguyễn Thị Tuyết H, hộ ông Lương Thanh T1 và bà Võ Thị Hồng N2; hộ ông Nguyễn Văn N1 và bà Võ Lê Hoàng Diễm C trả lại cho ông Nguyễn Thanh L, bà Nguyễn Thị Hồng N6, ông Nguyễn Hùng T3, bà Nguyễn Thị H1, bà Nguyễn Thị V, bà Nguyễn Thị H2 và bà Nguyễn Thị Ánh N4 phần di sản thừa kế của cha mẹ tôi để lại với diện tích 5.611m2 thuộc thửa 756, tờ bản đồ số 06, tọa lạc tại ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng.
- Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Nguyễn Hoàng N số BY 537671, số vào sổ cấp giấy chứng nhận: CH00387, thửa 756, tờ bản đổ số 06, diện tích còn lại 3.775m2, đất tọa lạc tại ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng do Ủy ban nhân dân huyện C cấp ngày 27/5/2015.
Tại tờ tường trình đề ngày 27/6/2021, biên bản ghi lời khai ngày 22/3/2021, quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên tòa, ông Nguyễn Hoàng Nghĩa l bị đơn trình bày:
Lúc ông còn nhỏ, ông chung sống với bà nội tên Nguyễn Thị H3 tại ấp A, xã A (nay là ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng). Cha ông N tên Nguyễn Thanh L có vợ bé và ly dị với mẹ của ông tên Huỳnh Thị M2. Cha ông bỏ anh em ông bơ vơ, nên bà nội ông có cho ông phần đất bà đang canh tác. Bà nội ông có nhờ chính quyền địa phương đo đạc và lập hồ sơ vào khoảng thời gian nào thì ông không nhớ (vì lúc đó ông còn nhỏ). Đến năm 1997, ông được cấp quyền sử dụng đất với diện tích 9188 m2 thuộc Thửa 497, tờ bản đồ sô 06, tọa lạc tại ấp A, xã A1 (là do cha ông nói số liệu), chứ ông không biết gì về giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đó vì cha ông giữ giùm để khỏi thất lạc. Đến năm 2000, ông về Sóc Trăng chung sống với mẹ của ông là bà M2 tại ấp H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng. Chú ông tên Nguyễn Hùng T3, sinh năm 1958, Địa chỉ ấp A, xã A, có gặp ông trao đổi là bà nội già rồi, nay ốm mai đau, để bà nội hiến một phần đất cho nhà nước cất trường học để chú ông bán căn tin, có đồng tiền lo cho bà nội nên ông đồng ý. Khoảng một thời gian sau, ông không nhớ rõ năm nào, thì chú ông có bán 5 phần đất nên cho ông Đặng Văn M1, Đặng Văn Mười M, Lương Thanh T1, Nguyễn Văn N1, Nguyễn Văn Ú với số tiền là bao nhiêu ông không rõ. Chú T3 ông có nói với ông là bán những phần này lo cho nội ông nên ông không ngăn cản. Đến năm 2014, bà nội mất chú T3 nói với ông giúp chú sang tên và làm giấy cho nhưng người mua đất. Ông gặp cha ông nói cho xin lại giấy quyền sử dụng đất thì cha ông nói “mất rồi, con đi làm lại đi”. Nên ông mới làm đơn cớ mất và ông đến chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện C làm đề nghị cấp giấy lại. Đến năm 2015, ông được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng Thửa đất số 756, tờ bản đồ số 06, diện tích 5611m2, tọa lạc tại ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng. Ông có nhờ những người có liên quan việc mua bán của chú T3 lên Ủy ban nhân dân xã A, huyện C lập thủ tục sang tên cho họ.
Đến nay, cha ông có thưa kiện ông lên tới Tòa, nên ông mới tường trình sự việc như vậy.
Nếu ông tường trình gian dối thì ông hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật. Còn ý kiến của ông đối với cha ông là: Những phần đất chú T3 bán thì để mọi người sinh sống, lao động. Còn phần đất còn lại ông sẽ cho cha ông, ông sẽ làm thủ tục cho cha ông đúng pháp luật.
Tại biên bản ghi lời khai ngày 12/4/2021, ông Nguyễn Hùng T3 là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày:
Ông là em một của ông L và là chú một của ông N, bà D1 là cháu dâu. Cha ông tên Nguyễn Văn N5 mắt năm 1981, mẹ ông tên Nguyễn Thị H3 mất năm 2013. Cha mẹ ông có 07 người con là Nguyễn Thị Hồng N6, Nguyễn Thanh L, Nguyễn Thị H2, Nguyễn Thị Ánh n, Nguyễn Hùng T3, Nguyễn Thị H1 và Nguyễn Thị V. Phần đất tranh chấp là của cha mẹ khai phá từ xưa, khi cha mẹ mất không để lại di chúc, nhưng khi còn sống có nói là để lại cho tôi, anh em nào khó khăn thì cắt chia cho. Khi đó có chị Nguyễn Thị Hồng N6 và em Nguyễn Thị Ánh N4. Phần đất của cha mẹ chưa đăng ký làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ đăng ký ở huyện để đóng thuế và sử dụng. Phần đất tranh chấp có diện tích hơn 8000m2 nhưng khi mẹ tôi còn sống đã cho làm trường học khoảng 3000m2, đất tranh chấp diện tích là 5.611m2, ông N đã sang bán hết còn lại 3.775m2. Sau khi cha, mẹ mất là do ông sử dụng. Phần đất đến năm 2014 đà được cấp giấy chứng nhận do Nguyễn Hoàng N đứng tên. Do tôi nhờ N đi là giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho tôi đứng tên, nhưng khi ông N đi làm giấy thì tự đứng tên. Ông N cho rằng khi ông N 11 tuổi bà nội (bà H3) có dẫn lên Ủy ban nhân dân xã A, huyện L (nay là xã A, huyện C) cho ông N có sự chứng kiến của ông là không đúng, khi ông đang làm ở S thì ông N đã đứng ra sang bán, đối với lộ đi ngang thì có bồi thường nhưng tiền bồi thường cũng do ông N nhận số tiền 53.000.000 đồng. Ông chỉ cần đất cha mẹ để lại chia đều cho 07 người anh chị em còn ông L khởi kiện ra sao ông không ý kiến, ông L tự quyết định.
Tại biên bản ghi lời khai ngày 12/4/2021, ông Nguyễn Văn N1 là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày:
Trước đây, người chị dâu tên Võ Thị V1 có nhận cố đất của ông Bảy T4 nên kêu tôi về dưới đây để ở gần lộ gần trường thì chị V1 nói có miếng đất ở gần trường do chị V1 cố có sang nền nên chị V1 kêu tôi, nên tôi có đến xem thì mới biết ông Bảy T4 đang canh tác, tôi nghe nói sang 02 nên với giá 1m ngang chạy dài 40m thì 01m là 02 chỉ vàng. Lúc đó, tôi cũng bỏ không quan tâm, sau đó N về làm bằng khoán thì năm 2015 xong rồi thì tôi đứng ra thỏa thuận với N, tôi mua 9m ngang với giá mỗi mét là 02 chỉ, nhưng N đo cho ra đến 9,5m. Sau đó địa chính xuống đo đạc cặm ranh tách bằng khoán luôn rồi tôi mới trả bằng vàng và tiền. Khi tách bằng khoán ra thì phần diện tích đất ông mua mang số Thửa 765, Tờ bản đồ số 6, diện tích 420,5m2, địa chỉ đất tại ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng, ông gặp trực tiếp thỏa thuận với ông N. Ông N có đưa giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông xem rồi sau đó tách giấy ra đứng tên ông rồi thì ông mới trả tiền và vàng cho N. Do ông thấy ông N đứng tên trong bằng khoán rồi nên ông tin và giao dịch với ông N. Bà V1 trước đây nhận cố đất từ ông T4 nên ông đưa trước cho chị V1 3,5 chỉ để đặt cọc mua đất, còn giao dịch giữa ông T4 với chị V1 thì ông T4 cố đất cho bà V1. Đến khi ông N về làm bằng khoán thì ông mới giao dịch trực tiếp với N thỏa thuận mua 9m với giá là 18 chỉ vàng 24 và ông N đồng ý trừ phần đặt cọc 3,5 chỉ ra ông mới tiếp tục trả ông N 10,5 chỉ và 3,5 chỉ đặt cọc luôn là 14 chỉ vàng 24K. Sau đó, ông nghe nói thưa kiện nên đến nay ông vẫn chưa trả 4 chỉ còn lại cho ông N. Hiện nay phần diện tích đất này ông đã cất nhà kiên cố và trực tiếp quản lý sử dụng. Về nguồn gốc Thửa đất 756 thì ông biết trước đó là bà H3 là mẹ ông L là bà nội ông N quản lý sử dụng phần đất này, nhưng không biết sao ông N đứng tên diện tích đất này. Ông thấy ông N sông với bà H3 thời gian dài đến khi ông N được cấp giấy thì ông đồng ý giao dịch với ông N. Theo yêu cầu của ông L yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng để trả đất lại thì không đồng ý với yêu cầu của ông L, còn 4 chỉ thì ông tiếp tục trả cho ông N. Hiện nay thửa 765 có ông, vợ ông tên Lê Hoàng Diễm C, sinh năm 1974; mẹ ruột ông tên Trần Kim T5, sinh năm 1939; con trai lớn Nguyễn Lê Anh H4, sinh năm 2001 và con nhỏ Nguyễn Lê Anh T6, sinh năm 2009 sinh sống. Tiền và vàng mua đất trà cho ông N chỉ của hai vợ chồng tôi không có ai khác đóng góp. Ông không có cho ai thuê hay thế chấp, hiện ông vẫn còn đang cất giữ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BY 151080 do Ủy ban nhân dân huyện C cấp cho ông là Nguyễn Văn N1 và vợ tên Lê Hoàng Diễm C ngày 23/10/2015 đối với Thửa 765.
Tại biên bản ghi lời khai ngày 13/4/2021, ông Lương Thanh T1 là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày:
Ông chỉ quen biết N và T4 còn những người kia thì tôi không biết rõ họ tên chính xác, nhưng gặp mặt thì biết và không có mâu thuẫn với ai. Năm 2015 kéo dài đến 2016, trước đây ông T4 sang chuyển nhượng cho ông nhưng làm giấy tay, sau này N về làm giấy thì làm hồ sơ chuyển nhượng ra xã, đến sau mấy tháng thì N về làm giấy tờ đất thì mới chuyển nhượng cho ông. Nghĩa là cháu ông T4. Chị vợ ông tên Võ Thị Q, cũng là chị dâu của Nguyễn Văn N1. Trước đây ông T4 đứng ra chuyển nhượng hai ba nền rồi cho cháu ông T4 là ông Nguyễn Văn Ú. Ông Đặng Văn M1 em và Đặng Văn M1 Anh rồi ông với ông Nguyễn Văn N1 là một lượt. Việc thỏa thuận do chị vợ ông thỏa thuận với ông T4 rồi sau đó ông gặp trực tiếp ông T4 để thỏa thuận. Khi gặp trực tiếp ông với ông Bảy T4 nói khi nào thằng N về làm giấy tờ đất thì tao kêu nó gặp tụi mày thỏa thuận mua bán đất. Lúc đầu nói một cái nền sáu bảy mét không cụ thể, đến khi N về thi kêu địa chính đến đo và thỏa thuận 09 mét, nhưng N cho thêm ra đến 9,5m, dài bốn mươi mấy mét. Thỏa thuận 1m ngang là 02 chỉ 24K. Tương đương gần 02 cây vàng, ông Bảy T4 nhận trước 07 chỉ vàng và 3.000.000 đồng từ ông đưa cho bà Q trả cho ông T4, ông trả cho N 10 chỉ vàng và 8.000.000 đồng tiền mặt. Hiện nay, ông còn thiếu N tương đương 04 chỉ vàng. Hiện nay, phần đất ông nhận chuyển nhượng đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BY 151079 do Ủy ban nhân dân huyện C cấp cho ông là Lương Thanh T1 và vợ ông tên Võ Thị Hồng N2 ngày 23/10/2015, số Thửa đất 764, tờ bản đồ số 6, diện tích 420,5m2. Trong đó, đất ở 75m2, đất trồng cây hàng năm 345,5m2, đất tọa lạc tại ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng. Trước đó ông có gặp và thỏa thuận với ông T4, sau đó ông gặp trực tiếp thỏa thuận với ông N. Trước đây ông có biết bà nội của N cho phần diện tích đất này, nhưng ông N chưa có bằng khoán, khi ông gặp N thì ông nói ông T4 muốn bán đất mày tính sao, thì N nói chú B có sang thì mấy anh cứ sang, giá cả thì thỏa thuận với ông T4, khi nào N làm giấy rồi thì làm thủ tục sang. Do tôi biết ông Ba Đ và ông Bảy T4 tranh giành đất bà nội N lúc đó còn khỏe, thì bà đứng ra làm giấy để lại đất hết cho N. Khi làm giấy ban đầu là của huyện L, sau này làm giấy lại thì của huyện C. Thửa đất này từ trước là ông Ba T7 trực tiếp canh tác còn ông Ba Đ thì không có trực tiếp canh tác. Hiện nay phần diện tích đất này tôi đã cất nhà kiên cố và trực tiếp quản lý sử dụng. Ông Nguyễn Văn Đ1 có tên gọi khác là Ba Đ là cha ruột của ông N, còn Nguyễn Thanh L thì tôi không biết. Về nguồn gốc Thửa đất 764, ông biết trước đó là của bà nội của Nghĩa là bà N5 là mẹ của ông T7 và ông Đ. Theo ông biết do ông Đ và T7 tranh chấp với nhau về nhà và đất, nên bà nội của N đi làm bằng khoán cho N đứng tên, nhưng thực tế là ông Bảy T4 trực tiếp canh tác một phần, còn một phần bỏ hoang. Bà nội N thứ hai ông chỉ biết gọi bà là N5. Ông thấy lúc còn nhỏ thì N sống với bà nội, thời gian sau nó có vợ thì không còn sống chung với bà N5. Khi N có vợ thì bà N5 còn sống, đến qua năm 2010 thì bà N5 chết. Hiện nay Thửa 764 do ông và vợ ông tên Võ Thị Hồng N2, con tên Lương Thanh T8, sinh ngày 26/10/1999, con tên Lương Võ Huệ G, sinh ngày 04/7/2017 sinh sống trên phần đất này. Tiền và vàng mua đất trả cho ông N, ông Tiến chỉ của hai vợ chồng ông không có ai khác đóng góp. Theo yêu cầu của ông L thì ông không đồng ý.
Tại biên bản ghi lời khai ngày 02/6/2022, ông Đặng Văn M1 là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày:
Thửa đất số 762, tờ bản đồ số 6, tọa lạc tại ấp A, xã A, huyện C, diện tích 354m2 đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BY 151077 ngày 23/10/2015 do Ủy ban nhân dân huyện C cấp cho Đặng Văn M1 và bà Phạm Thị Ngọc T2 năm 2007, vợ chồng ông thỏa thuận mua bán đất với ông T4 ngang 06 m dài 20 m với giá 01 cây vàng 24K. Vợ chồng ông đặt cọc cho ông T4 02 chỉ vàng rồi cất nhà. Đến khi N được cấp chứng nhận quyển sử dụng đất thì N kêu vợ chồng ông trả 01 cây vàng 24K để nhận diện tích đất như những người khác là ngang 08m dài 44,5m, nên vợ chồng ông đồng ý và đã trả đủ 01 cây vàng 24K cho N. Nay theo yêu cầu của ông L thì vợ chồng ông không đồng ý, vì mua bán hợp pháp và hiện nay vợ chồng ông đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Tại biên bản ghi lời khai ngày 02/6/2022, ông Nguyễn Văn Ú là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày:
Thửa đất số 761. tờ bản đồ số 06, tọa lạc tại ấp A, xã A, huyện C đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông là Nguyễn Văn Ú và vợ là bà Viên Thị Kiều D1, sinh năm 1985, diện tích 176m2, ngang 5,2m dài 34m. Vào năm 2008, vợ chồng ông thỏa thuận mua bán thửa đất này với ông Nguyễn Hùng T3 với giá là 1,3 cây vàng 24K, quy ra tiền thời điểm đó khoảng 43.000.000 đồng. Vợ chồng ông trả tiền mặt tại nhà ông T3 và có mặt ông T3 cùng ông N, ông đưa 37.000.000 đồng tiền mặt cho ông T3 và 6.000.000 đồng cho N. Giấy tờ đất do N đứng tên nên vợ chồng ông với vợ chồng ông N lập hợp đồng và làm giấy tờ đất. Nay theo yêu cầu của ông L thì ông không đồng ý vì ông mua hợp pháp đúng quy định pháp luật.
Tại biên bản ghi lời khai ngày 02/6/2022, ông Đặng Văn M1 Một và bà Nguyễn Thị Tuyết H là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày:
Thửa đất số 763, tờ bản đồ số 06, tọa lạc tại ấp A, xã A, huyện C, diện tích 465m2 đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 23/10/2015 cho ông là Nguyễn Văn M3 Một và vợ là bà Nguyễn Tuyết H (Nguyễn Thị Tuyết H). Vào ngày 01/10/2009, ông Nguyễn Văn V2 là cha vợ ông Mười M và là cha ruột bà H nhận chuyển nhượng từ ông Nguyễn Hùng T3 là em ruột ông L và là chủ của N, giá chuyển nhượng là 20 chỉ vàng 24K, thỏa thuận được lập thành văn bản là “Đơn xin xác nhận v/v hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” đề ngày 01/10/2009, có ông Nguyễn Hùng T3 ký tên và được xác nhận của ông Nguyễn Đại H5 là phó ban nhân dân ấp chứng kiến xác nhận. Ông V2 đã trả cho ông T3 15 chỉ vàng 24K, còn lại 05 chỉ thì do vợ chồng ông trả cho N, với diện tích đất dài 30m, rộng 07m. Đến khi N được cấp giấy thì vợ chồng ông trả thêm cho N 05 chỉ vàng 24K để được diện tích lớn sử dụng như hiện nay ngang 10,5m, dài 44,5m. Nay theo yêu cầu của ông L thì vợ chồng ông không đồng ý vì vợ chồng ông mua hợp pháp và hiện nay đã được cấp giấy chứng nhận và đã xây dựng nhà kiên cố từ khi mua đất đến nay.
Tại phiên toà, nguyên đơn ông L vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện các đương sự không thống nhất với nhau về việc giải quyết toàn bộ nội dung vụ án. Bị đơn ông N cung cấp thông tin vợ ông là bà Ngọc D có nhận được các văn bản tố tụng của Tòa án, nhưng hiện đang bệnh nên không thể tham gia phiên toà được và đồng ý trả phần diện tích đất còn lại theo yêu cầu của cha ông và đồng ý hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hiện do ông và vợ đứng tên để làm thủ tục lại theo yêu cầu của cha ông. Ý kiến của ông cùng là ý kiến của vợ ông. Ổn định cho 05 hộ đã chuyển nhượng đất thực hiện đầy đủ thủ tục và đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đồng thời đã cất nhà kiên cố trên đất.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu quan điểm như sau:
- Việc tuân theo pháp luật: Trong quá trình giải quyết vụ án ở cấp sơ thẩm, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã chấp hành đúng pháp luật tố tụng dân sự và các đương sự thực hiện quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên, tại phiên toà có một số người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt không rõ lý do, mặc dù đã được Tòa án triệu tập và tống đạt hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt là chưa chấp hành đúng theo quy định của BLTTDS năm 2015. Đề nghị HĐXX áp dụng điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 của BLTTDS năm 2015 xét xử vắng mặt nhưng người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên toà.
- Về nội dung giải quyết vụ án: Tại phiên toà, bị đơn đồng ý trả phần diện tích đất còn lại và đồng ý hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà hiện nay các bị đơn đang đứng tên quyền sử dụng nên cần ghi nhận để chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Đối với yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa các bị đơn với 05 hộ gồm ông Nguyễn Văn Ú, ông Đặng Văn M1, ông Đặng Văn Mười M, ông Lương Thanh T1, ông Nguyễn Văn N1 vô hiệu và buộc trả lại quyền sử dụng đất đã nhận chuyển nhượng là không có căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu này của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
Về tố tụng:
[1] Về sự có mặt của đương sự: Các đương sự đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai, nhưng bị đơn bà Nguyễn Thị Ngọc D vắng mặt không rõ lý do; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Hoàng N3, bà Nguyễn Thị H2, bà Nguyễn Thị Ánh N4, bà Nguyễn Thị H1, bà Nguyễn Thị V vắng mặt, nhưng có người đại diện ông Nguyễn Thanh L tham gia phiên toà; Đại diện Ủy ban nhân dân huyện C và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông N1, bà C, ông Ú, bà Kiều D1, ông T1, bà N2, ông Mười M, bà H, ông M1, bà T2, ông T3 vắng mặt không rõ lý do. Căn cứ vào điểm đ khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.
[2] Về quan hệ tranh chấp: Nguyên đơn ông Nguyền Thanh L yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn Hoàng N lần lượt với ông Nguyễn Văn Ú, ông Đặng Văn M1, ông Đặng Văn Mười M, ông Lương Thanh T1, ông Nguyễn Văn N1 là vô hiệu; Buộc hộ ông Nguyễn Văn Ú, bà Viên Thị Kiều D1; hộ ông Đặng Văn M1 và bà Phạm Thị Ngọc T2, hộ ông Đặng Văn Mười M và bà Nguyễn Thị Tuyết H, hộ ông Lương Thanh T1 và bà Võ Thị Hồng N2; hộ ông Nguyễn Văn N1 và bà Võ Lê Hoàng Diễm C trả lại đất và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Nguyễn Hoàng N số BY 537671, số vào sổ cấp giấy chứng nhận: CH00387, thửa 756, tờ bản đồ số 06, diện tích còn lại 3.775m2, đất tọa lạc tại ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng do Ủy ban nhân dân huyện C cấp ngày 27/5/2015. Nên đây là tranh chấp về dân sự và quan hệ pháp luật tranh chấp là “Tranh chấp yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu, đòi lại quyển sử dụng đất và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” theo Khoản 3, 9 Điều 26 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[3] Về thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn có yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Theo quy định tại Điều 34 của Bộ luật Tố tụng dân sự và khoản 4 Điều 32 của Luật tố tụng hành chính thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng.
Về nội dung [4] Về nguồn gốc phần diện tích đất tranh chấp: Các bên đương sự đều thừa nhận trước đây cụ Nguyễn Văn N5, sinh năm 1926 (chết ngày 23/10/1981) và cụ Nguyễn Thị H3, sinh năm 1930 (chết ngày 13/01/2014) là cha mẹ của bà Nguyễn Thị Hồng N6, ông Nguyễn Thanh L, bà Nguyễn Thị H2, bà Nguyễn Thị Ánh N4, ông Nguyễn Hùng T3, bà Nguyễn Thị H1 và bà Nguyễn Thị V và là ông bà nội của ông Nguyễn Hoàng N do khai hoang phục hóa có diện tích đất 9.188 m2, loại đất CHN, thuộc Thửa đất số 497, tờ bản đồ số 06, tọa lạc tại ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng (trước đây là ấp A, xã A, huyện L, tỉnh Sóc Trăng. Trong thời gian quản lý sử dụng, thì cụ N5 chết ngày 23/10/1981, cụ H3 hiến một phần đất có diện tích 3.577 m2 để xây dựng trường tiểu học A B thì phần đất còn lại có diện tích là 5.611 m2 và mang Thửa đất số 497a, tờ bản đồ số 06. Đến ngày 09/01/2014 cụ H3 chết không để lại di chúc. Theo quy định tại khoản 2 Điều 92 của Bộ luật Tố tụng dân sự về những tình tiết, sự kiện không phải chứng minh. Do đó, có căn cứ xác định phần diện tích đất tranh chấp có nguồn gốc của cụ ông Nguyễn Văn N5 và cụ bà Nguyễn Thị H3.
[5] Xét yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn Hoàng N với lần lượt các ông Nguyễn Văn Ú đối với phần diện tích đất 176m2 thuộc thửa 761; ông Đặng Văn M1 đối với phần diện tích đất 354m2 thuộc thửa 762; ông Đặng Văn M1 Một đối với phần diện tích đất 465m2 thuộc thửa 763; ông Lương Thanh T1 đối với phần diện tích đất 420,5m2 thuộc thửa 764; ông Nguyễn Văn N1 đối với phần diện tích đất 420,5m2 thuộc thửa 765, tờ bản đồ số 06, đất tọa lạc tại ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng là vô hiệu, Hội đồng xét xử thấy: Toàn bộ phần diện tích đất 9.188m2. Trong đó, 300m2 loại đất T (Thổ cư), 8.888m2 loại đất ĐM (Đất màu) thuộc Thửa đất số 497, tờ bản đồ số 06, tại ấp A, xã A, huyện L đà được Ủy ban nhân dân huyện L, tỉnh Sóc Trăng cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 07/I.310250 công nhận cho ông N được quyền sử dụng. Sau đó, ông N bị mất giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và xin đăng ký lại thì Ủy ban nhân dân huyện C (tách huyện từ huyện L) ban hành Quyết định số 306/QĐ-UBND ngày 18/10/2012 về việc hủy bỏ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông N và thông báo cho ông N lập các thủ tục xin đăng ký cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do có biến động về diện tích đất là cụ H3 khi còn sống đã hiến một phần đất để xây dựng trường học. Tại Công văn số 341/UBND-TNMT ngày 10/02/2022 của Ủy ban nhân dân huyện C cung cấp thông tin: Trước khi ông Nguyễn Hoàng N được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 07/I.310250 thì người đứng tên trong sổ địa chính là ông Nguyễn Hoàng N. Ngày 18/10/2012, Ủy ban nhân dân huyện C ban hành Quyết định số 306/QĐ-UBND về việc hủy bỏ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Nguyễn Hoàng Nghĩa lý d mất giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đến ngày 27/5/2015, Ủy ban nhân dân huyện C cấp Giấy chứng nhận quyển sử dụng đất số BY 537671 cho hộ ông Nguyễn Hoàng Nghĩa l đúng đối tượng đảm bảo đúng theo trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật. Phần diện tích đất còn lại sau khi đà hiến một phần để xây dựng trường học mang Thửa đất số 756 với diện tích 5611m2. Theo quy định tại Điều 5 của Luật Đất đai năm 2013 về người sử dụng đất thì ông Nghĩa là người sử dụng đất được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất. Sau khi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì ông N chuyển nhượng một phần đất lần lượt cho ông Ú diện tích 176m2, ông M1 diện tích 354m2, ông Mười M diện tích 465m2, ông T1 diện tích 420,5m2, ông N1 diện tích 420,5m2. Vợ chồng ông N với vợ chồng ông Ú, ông M1, ông Mười M, ông T1 và ông N1 lập hợp đồng chuyển nhượng, tách thửa, nộp thuế, chuyển mục đích sử dụng đất, đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và các ông Ú, ông M1, ông Mười M, ông T1, ông N1 đã xây dựng nhà kiên cố trên diện tích đất đã nhận chuyển nhượng từ ông N. Đến ngày 23/10/2015, Ủy ban nhân dân huyện C đã lần lượt cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BY 151076 cho ông Nguyễn Văn Ú bà Viên Thị Kiều D1, số BY 151079 cho ông Lương Thanh T1 bà Võ Thị Hồng N2, số BY 151078 cho ông Đặng Văn M1 Một bà Nguyễn Tuyết H, số BY 151077 cho ông Đặng Văn M1 bà Phạm Thị Ngọc T2, số BY 151080 cho ông Nguyễn Văn N1 bà Lê Hoàng Diễm C với diện tích đã nhận chuyển nhượng từ ông N. Đến ngày 16/9/2015, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất chỉnh lý biến động đối với Thửa đất số 756 chuyển nhượng đất cho 05 hộ thì phần diện tích còn lại là 3.775m2. Các bên tham gia giao dịch dân sự là tự nguyện, có năng lực, mục đích, nội dung giao dịch không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội và không có tranh chấp với nhau. Theo quy định tại Điều 117 của Bộ luật Dân sự năm 2015 về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự. Do đó, ông L yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông N lần lượt với ông Ú, ông M1, ông Mười M, ông T1, ông N1 vô hiệu và buộc trả đất là không có căn cứ chấp nhận.
[6] Xét yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BY 537671 do Ủy ban nhân dân huyện C cấp ngày 27/5/2015 cho hộ ông Nguyễn Hoàng N, Hội đồng xét xử thấy: Tại Công văn số 341/UBND-TNMT ngày 10/02/2022 của Ủy ban nhân dân huyện C có ý kiến như sau: Việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BY 537671 cho hộ ông Nguyễn Hoàng Nghĩa l đúng đối tượng đảm bảo đúng theo trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, ông N đồng ý hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã được cấp cho vợ chồng ông đối với phần diện tích còn lại, để trả phần diện tích đất còn lại theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đà cấp cho các anh chị em của cha ông là ông L. Do đó, ông L yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BY 537671 do Ủy ban nhân dân huyện C cấp ngày 27/5/2015 cho hộ ông Nguyễn Hoàng Nghĩa l có căn cứ chấp nhận.
[7] Xét yêu cầu buộc vợ chồng ông N, bà Ngọc D cùng 05 hộ nhận chuyển nhượng đất từ vợ chồng ông N và bà Ngọc D là hộ ông Nguyễn Văn Ú, bà Viên Thị Kiều D1; hộ ông Đặng Văn M1 và bà Phạm Thị Ngọc T2, hộ ông Đặng Văn Mười M và bà Nguyễn Thị Tuyết H, hộ ông Lương Thanh T1 và bà Võ Thị Hồng N2; hộ ông Nguyễn Văn N1 và bà Võ Lê Hoàng Diễm C trả lại cho ông Nguyễn Thanh L, bà Nguyễn Thị Hồng N6, ông Nguyễn Hùng T3, bà Nguyễn Thị H1, bà Nguyễn Thị V, bà Nguyễn Thị H2 và bà Nguyễn Thị Ánh N4 phán diện tích đất di sản thừa kế của cha mẹ để lại với diện tích 5.611m2 thuộc thửa 756, tờ bản đồ số 06, tọa lạc tại ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng, Hội đồng xét xử thấy: Như nhận định tại mục [5] thì các bên tham gia giao dịch dân sự là tự nguyện, có năng lực, mục đích, nội dung giao dịch không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội và không có tranh chấp với nhau. Đồng thời như nhận định tại mục [6] thì ông N đồng ý hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà ông đã được cấp đối với phần diện tích đất còn lại sau khi chuyển nhượng cho 05 hộ. Do đó, cần ghi nhận ý kiến đồng ý trả phần diện tích đất còn lại của bị đơn để chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
[8] Từ những nhận định, phân tích trên thấy yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ chấp nhận một phần; Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ chấp nhận.
[9] Về án phí dân sự sơ thẩm: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận một phần nên bị đơn phải chịu án phí đối với yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận. Nguyên đơn được miễn án phí đối với yêu cầu không được chấp nhận do là người cao tuổi.
[10] Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản: Bị đơn phải chịu do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận một phần.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 5; Điều 26; Điều 34; Điều 37; Khoản 2 Điều 92; Khoản 1 Điều 147; Điều 157; Điều 165; Điều 166; Điều 227; Điều 228; Điều 271; Khoản 1 Điều 273: Điều 278; Điều 280 của Bộ luật Tố tụng Dân sự;
Căn cứ Khoản 4 Điều 32 của Luật Tố tụng hành chính;
Căn cứ Điều 100 của Luật Đất đai năm 2013;
Căn cứ Điều 117; Điều 166 của Bộ luật Dân sự năm 2015;
Căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 12; khoản 1, 4 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Thanh L về việc tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn Hoàng N với lần lượt các ông Nguyễn Văn Ú đối với phần diện tích đất 176m2 thuộc thửa 761; ông Đặng Văn M1 đối với phần diện tích đất 354m2 thuộc thửa 762; ông Đặng Văn M1 Một đối với phần diện tích đất 465m2 thuộc thửa 763; ông Lương Thanh T1 đối với phần diện tích đất 420,5m2 thuộc thửa 764; ông Nguyễn Văn N1 đối với phần diện tích đất 420,5m2 thuộc thửa 765, tờ bản đồ số 06, đất tọa lạc tại ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng là vô hiệu.
2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Thanh L về việc hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BY 537671 do Ủy ban nhân dân huyện C cấp ngày 27/5/2015 cho hộ ông Nguyễn Hoàng N. Tuyên hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BY 537671 do Ủy ban nhân dân huyện C cấp ngày 27/5/2015 cho hộ ông Nguyễn Hoàng N.
3. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Thanh L về việc buộc ông Nguyễn Hoàng N và bà Nguyễn Thị Ngọc D trả ông Nguyễn Thanh L, bà Nguyễn Thị Hồng N6, ông Nguyễn Hùng T3, bà Nguyễn Thị H1, bà Nguyễn Thị V, bà Nguyễn Thị H2 và bà Nguyễn Thị Ánh N4 phần đất diện tích 3.775m2 thuộc thửa 756, tờ bản đồ số 06, tọa lạc tại ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng.
Buộc ông Nguyễn Hoàng N và bà Nguyễn Thị Ngọc D trả ông Nguyễn Thanh L, bà Nguyễn Thị Hồng N6, ông Nguyễn Hùng T3, bà Nguyễn Thị H1, bà Nguyễn Thị V, bà Nguyễn Thị H2 và bà Nguyễn Thị Ánh N4 phần đất diện tích 3.775m2 thuộc Thửa đất 756, tờ bản đồ số 06, tọa lạc tại ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng.
(Kèm theo sơ đồ hiện trạng do Công ty TNHH H6 đo vẽ) 4. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Thanh L về việc buộc lán lượt ông Nguyễn Văn Ú và bà Viên Thị Kiều D1 trả phần diện tích đất 176m2 thuộc Thửa đất số 761; ông Đặng Văn M1 và bà Phạm Thị Ngọc T2 trả phần diện tích đất 354m2 thuộc Thửa đất số 762; ông Đặng Văn M1 Một và bà Nguyễn Thị Tuyết H trả phần diện tích đất 465m2 thuộc Thửa đất số 763; ông Lương Thanh T1 và bà Võ Thị Hồng N2 trả phần diện tích đất 420,5m2 thuộc Thửa đất số 764; ông Nguyễn Văn N1 và bà Võ Lê Hoàng Diễm C trả phần diện tích đất 420,5m2 thuộc Thửa đất số 765, tờ bản đồ số 06, đất tọa lạc tại ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Sóc Trăng.
5. Về án phí dân sự sơ thẩm:
- Bị đơn ông Nguyễn Hoàng N và bà Nguyễn Thị Ngọc D phải chịu số tiền 300.000đồng án phí không có giá ngạch và số tiền 11.325.000đồng án phí có giá ngạch.
- Nguyên đơn ông Nguyễn Thanh L được miễn án phí.
6. Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản: Số tiền 14.250.000 đồng (theo Phiếu chi số 101 GĐ ngày 22/9/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng). Bị đơn ông Nguyễn Hoàng N và bà Nguyễn Thị Ngọc D phải chịu. Do nguyên đơn ông Nguyễn Thanh L đã nộp tiền tạm ứng trước nên bị đơn ông Nguyễn Hoàng N và bà Nguyễn Thị Ngọc D có nghĩa vụ nộp để hoàn trà cho nguyên đơn ông Nguyễn Thanh L.
Các đương sự được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, để yêu cầu Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm. Riêng đối với đương sự được quyền kháng cáo nhưng vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo nêu trên tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được cấp, tống đạt hợp lệ.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014), thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014).
Bản án 12/2023/DS-ST về tranh chấp yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu, đòi lại quyền sử dụng
Số hiệu: | 12/2023/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Sóc Trăng |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 31/03/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về