TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUY PHONG, TỈNH BÌNH THUẬN
BẢN ÁN 12/2021/HS-ST NGÀY 19/01/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 19 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện TP, tỉnh Bình Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 149/2020/TLST-HS ngày 25 tháng 11 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/2021/QĐXXST- HS ngày 05 tháng 01 năm 2021, đối với bị cáo:
Phạm Hữu S (tên gọi khác: S Tề), sinh ngày 11 tháng 02 năm 1985, tại tỉnh Bình Thuận.
Hộ khẩu thường trú: thôn BL, xã PRT, huyện B, tỉnh Bình Thuận; Chổ ở hiện nay: Khu phố MT2, thị trấn PRC, huyện TP, tỉnh Bình Thuận; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 3/12; Giới tính: Nam; Nghề nghiệp: Làm biển; Con ông: Phạm Văn L, sinh năm 1951 và bà Trần Thị Mỹ D, sinh năm 1956; Vợ: Nguyễn Thị Xuân L (sinh năm 1986), hiện ở Khu phố MT2, thị trấn PRC, huyện TP, tỉnh Bình Thuận; Con: 02 người. Lớn nhất (sinh năm 2013), nhỏ nhất (sinh năm 2018). Tiền án, tiền sự: không.
*Quá trình hoạt động nhân thân:
Tại bản án số 12/2006/HSST ngày 30 tháng 3 năm 2006 của Tòa án nhân dân huyện TP, tỉnh Bình Thuận xử phạt Phạm Hữu S 12 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”.
Tại bản án số 17/2006/HSST ngày 10 tháng 5 năm 2006 của Tòa án nhân dân huyện TP xử phạt Phạm Hữu S 18 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”.
Tổng hợp với hình phạt tù của bản án hình sự sơ thẩm số 12/2006/HSST ngày 30.3.2006 của Tòa án nhân dân huyện TP buộc Phạm Hữu S chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là 30 tháng tù. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 10 tháng 5 năm 2008 (đã xóa án tích).
Bị cáo bị bắt ngày 26 tháng 10 năm 2020, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện TP (có mặt tại phiên tòa).
1 - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Nguyễn Thị Xuân L, sinh năm 1986. Địa chỉ: Khu phố MT2, thị trấn PRC, huyện TP, tỉnh Bình Thuận (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Bị cáo Phạm Hữu S là đối tượng nghiện ma túy. Vào khoảng 19 giờ ngày 26 tháng 10 năm 2020, S điều khiển xe mô tô hiệu Exciter màu xám biển số 86B1- 27274 đến khu vực trước siêu thị Coopmart đường Lý Thường Kiệt thuộc khu phố MT4, thị trấn PRC, huyện TP, tỉnh Bình Thuận gặp một người thanh niên (không rõ lai lịch) mua 6.000.000 đồng ma túy. Sau khi nhận ma túy, S cất giấu vào rổ được gắn bên cạnh trái phía trước xe mô tô của S chạy đi. S điều khiển xe mô tô đi đến số nhà 170 đường Cao Bá Quát thuộc khu phố MT4, thị trấn PRC, huyện TP thì nhìn thấy lực lượng Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy – Công an tỉnh Bình Thuận phối hợp với Công an huyện TP và Công an thị trấn PRC đang tuần tra nên S điều khiển xe mô tô tung vào gốc cây bên đường làm gói ma túy rơi xuống đất thì bị lực lượng tuần tra phát hiện bắt quả tang Phạm Hữu S.
Vật chứng thu giữ:
Thu giữ dưới đất tại vị trí S đứng 01 bịch nylon không màu được cuộn lại và buộc dây thun bên ngoài, mở bịch nylon ra có 01 vỏ bao thuốc lá hiệu “555” bên trong có 01 gói nylon không màu, có nhíp kéo màu đỏ một đầu, (kích thước 05cm x 08cm), bên trong gói nylon có chứa 02 cục chất rắn dạng nén, màu trắng không rõ hình dạng:
Thu giữ tại túi quần bên trái phía trước của S 05 bơm kim tiêm có nắp đậy màu đỏ:
Thu giữ 01 xe mô tô hiệu Exciter màu xám biển số 86B1-27274.
Tại bản Kết luận giám định số: 1185/KLGĐ- PC09 ngày 30 tháng 10 năm 2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận kết luận: Mẫu M gửi giám định có khối lượng là 16,7564 gam, là Heroine.
Tại bản Cáo trạng số:153/CT-VKS-TP ngày 25 tháng 11 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện TP đã truy tố bị cáo Phạm Hữu S về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tại phiên tòa:
- Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện TP vẫn giữ nguyên quyết định truy tố theo Cáo trạng số: 153/CT-VKS-TP ngày 25 tháng 11 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện TP. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Phạm Hữu S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Đề nghị áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; khoản 1 Điều 50 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo từ 05 năm 06 tháng đến 06 năm tù.
Về biện pháp tư pháp: Đề nghị tịch thu tiêu hủy toàn bộ mẫu vật hoàn lại sau giám định gồm 01 gói nylon không màu, có nhíp kéo màu đỏ một đầu, (kích thước 05cm x 08cm) và 16,5188 gam heroin còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 1185; 01 vỏ gói thuốc lá hiệu 555, dây thun và 05 bơm kim tiêm có nắp đậy màu đỏ.
- Bị cáo Phạm Hữu S thừa nhận hành vi phạm tội, thừa nhận Cáo trạng truy tố bị cáo là đúng tội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra và truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Ngoài ra, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, không có người nào có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, đúng quy định pháp luật.
[2] Về chứng cứ buộc tội bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Hữu S đã thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng số 153/CT-VKS-TP ngày 25 tháng 11 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện TP đã truy tố. Bị cáo khẳng định những lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra là hoàn toàn tự nguyện, đúng sự thật, bị cáo không bị bức cung và Cáo trạng truy tố là đúng, không oan cho bị cáo.
Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
Như vậy, có đủ cơ sở kết luận đây là vụ án “Tàng trữ trái phép chất ma túy” xảy ra vào khoảng 20 giờ 30 phút ngày 26 tháng 10 năm 2020 tại khu phố MT4, thị trấn PRC, huyện TP do Phạm Hữu S đang cất giấu 16,7564 gam Heroin để sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang.
Do đó Cáo trạng số 153/CT-VKS-TP ngày ngày 25 tháng 11 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện TP truy tố bị cáo Phạm Hữu S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ và đúng quy định của pháp luật.
[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo:
Bị cáo là công dân có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận biết được tác hại của ma túy đối với con người và hệ lụy do ma túy mang lại đối với xã hội cũng như việc Nhà nước nghiêm cấm mọi hành vi tàng trữ, sử dụng chất ma túy và sẽ bị trừng trị nghiêm những ai cố tình vi phạm. Mặc dù nhận thức rõ điều này nhưng để thỏa mãn nhu cầu sử dụng ma túy của mình nên vào ngày 26 tháng 10 năm 2020 bị cáo đến khu vực trước siêu thị Coopmart đường Lý Thường Kiệt thuộc khu phố MT4, thị trấn PRC gặp một người thanh niên không rõ lai lịch mua Heroin với mục đích đem về sử dụng cho bản thân.
Hành vi phạm tội của bị cáo là cố ý, gây nguy hiểm cho xã hội thể hiện sự xem thường pháp luật, xâm phạm trực tiếp chính sách độc quyền quản lý Nhà nước về các chất ma túy, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương, ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội.
[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Tuy nhiên bị cáo có nhân thân xấu: Tại bản án số 12/2006/HSST ngày 30.3.2006 của Tòa án nhân dân huyện TP, tỉnh Bình Thuận xử phạt Phạm Hữu S 12 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”; Tại bản án số 17/2006/HSST ngày 10.5.2006 của Tòa án nhân dân huyện TP xử phạt Phạm Hữu S 18 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Tổng hợp với hình phạt tù của bản án hình sự sơ thẩm số 12/2006/HSST ngày 30.3.2006 của Tòa án nhân dân huyện TP buộc Phạm Hữu S chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là 30 tháng tù. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 10.5.2008 (đã xóa án tích).
Về tình tiết tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) cần được áp dụng cho bị cáo.
Với tính chất mức độ phạm tội của bị cáo, trên cơ sở cân nhắc các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy rằng cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội, mà còn để bị cáo có điều kiện cai nghiện đồng thời phòng ngừa tội phạm chung cho xã hội.
[5] Về ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân huyện TP:
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện TP về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt là tương xứng với mức độ hành vi phạm tội của bị cáo nên được chấp nhận.
[6] Về xử lý vật chứng:
Đối với toàn bộ mẫu vật được hoàn lại sau giám định gồm: 01 gói nylon không màu, có nhíp kéo màu đỏ một đầu, (kích thước 05cm x 08cm) và 16,5188 gam heroin còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 1185 có chữ ký của giám định viên Nguyễn Hồng Thích và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Thuận, là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành và không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.
01 vỏ gói thuốc lá hiệu “555”, dây thun và 05 bơm kim tiêm có nắp đậy màu đỏ là vật không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.
Đối với 01 xe mô tô hiệu Exciter màu xám biển số 86B1-27274 thu giữ của Phạm Hữu S, đây là tài sản của S và Nguyễn Thị Xuân L (vợ của S). Do L không biết S sử dụng xe mô tô hiệu Exciter màu xám biển số 86B1-27274 vào việc phạm tội nên trong quá trình điều tra Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện TP đã trả lại cho Nguyễn Thị Xuân L.
[7] Đối với người thanh niên đã bán Heroin cho Phạm Hữu S tại khu vực siêu thị Coopmart thuộc thị trấn PRC, huyện TP do chưa rõ lai lịch nên sẽ tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý sau.
[8] Về án phí: Bị cáo Phạm Hữu S phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[9] Về quyền kháng cáo: bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
- Điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; khoản 1 Điều 50 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
- Điểm a khoản 1 Điều 46; điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điểm a, c khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 135: khoản 2 Điều 136; Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự.
- Nghị quyết số:326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
[1] Tuyên bố: Bị cáo Phạm Hữu S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
[2] Xử phạt: Bị cáo Phạm Hữu S mức án 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù.
Thời hạn tù tính từ ngày 26 tháng 10 năm 2020. [3] Về xử lý vật chứng:
Tịch thu tiêu hủy toàn bộ mẫu vật được hoàn lại sau giám định gồm: 01 (một) gói nylon không màu có nhíp kéo màu đỏ một đầu và 16,5188 gam heroin còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 1185 có chữ ký của giám định viên Nguyễn Hồng Thích và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Thuận.
Tịch thu tiêu hủy 01 vỏ gói thuốc lá hiệu “555”, dây thun, 01 bịch nylon không màu được niêm phong trong phong bì có ký hiệu số 02 có chữ ký của Phạm Hữu S, Trần Bảo Hùng, Trần Văn Phúc, Kiều Văn Đông, Trần Trọng Minh, điều tra viên Nguyễn Trọng Đồng; 05 bơm kim tiêm có nắp đậy màu đỏ được niêm phong trong phong bì có ký hiệu số 03 có chữ ký của Phạm Hữu S, Trần Bảo Hùng, Trần Văn Phúc, Kiều Văn Đông, Trần Trọng Minh, điều tra viên Nguyễn Trọng Đồng và có dấu tròn đỏ của Công an thị trấn PRC.
(Toàn bộ vật chứng hiện đang tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện TP theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 26 tháng 11 năm 2020 giữa Chi cục thi hành án dân sự huyện TP và Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện TP).
[4] Về án phí: Buộc bị cáo Phạm Hữu S phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
[5] Về quyền kháng cáo: Bị cáo Phạm Hữu S có quyền kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (19/01/2021)./.
Bản án 12/2021/HS-ST ngày 19/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 12/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tuy Phong - Bình Thuận |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 19/01/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về