Bản án 12/2021/HNGĐ-ST ngày 30/08/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG KHƯƠNG – TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 12/2021/HNGĐ-ST NGÀY 30/08/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 30 tháng 8 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 24/2021/TLST-HNGĐ ngày 29 tháng 3 năm 2021, về việc “Ly hôn, Tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”.

Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 09/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 08 tháng 7 năm 2021; quyết định hoãn phiên tòa số 03/2021/QĐST-HNGĐ ngày 29/7/2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Vàng Thị Ch, sinh năm 1981, địa chỉ: Thôn L, xã T, huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai. Vắng mặt Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn: Bà La Thị Huyền Trang – Trợ giúp viên, Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Lào Cai – Có mặt

Bị đơn: Anh Cư Seo V, sinh năm 1981, Đăng ký HKTT: Thôn M, xã T, huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai. Hiện đang chấp hành án tại Trại giam Quyết Tiến, Tổng Cục VIII, Bộ Công an, địa chỉ: Huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 26 tháng 3 năm 2021 và văn bản ghi lời khai tại Tòa án, nguyên đơn chị Vàng Thị Ch trình bày: Chị và anh Cư Seo V về chung sống với nhau năm 2007, có làm thủ tục cưới hỏi theo phong tục địa phương nhưng không đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Việc chung sống của anh chị dựa trên sự tự nguyện, tìm hiểu, không bị ép buộc, lừa dối. Anh chị chung sống với nhau đến năm 2009 thì anh V bị bắt và bị Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai xét xử, tuyên phạt anh V mức án chung thân về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Hiện nay anh V đang chấp hành án tại trại giam Quyết Tiến, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Do thời gian anh V chấp hành án còn dài nên chị không chờ đợi được, do đó chị khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Cư Seo V.

Về con: Trong quá trình chung sống anh chị có một con chung là cháu Cư Đức C sinh ngày 13/3/2008. Nguyện chị Ch là được trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu C đến tuổi trưởng thành (đủ 18 tuổi), chị không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản và khoản nợ: Chị và anh V không có tài sản chung, không có nợ chung nên không yêu cầu tòa án giải quyết.

Tại văn bản trả lời Tòa án, bị đơn anh Cư Seo V trình bày: anh và chị Ch tự nguyện lấy nhau và làm đám cưới theo phong tục địa phương, nhưng không đăng ký kết hôn. Nay chị Ch xin ly hôn anh không có ý kiến gì.

Về con: anh và chị Ch có 01 con chung là cháu Cư Đức C, do anh đang chấp hành án nên sau khi ly hôn, anh đồng ý để chị Ch nuôi con đến khi anh chấp hành án xong.

Về tài sản chung: anh và chị Ch có tài sản chung là nhà đất, tuy nhiên tại đơn đề nghị đề ngày 11/8/2021, anh có ý kiến không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung của anh và chị Ch nữa..

Do chị Ch có đơn yêu cầu không tiến hành hòa giải nên Tòa án không hòa giải về nuôi con.

Tại phiên tòa sơ thẩm, chị Ch vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt. Bị đơn anh Cư Seo V không có yêu cầu phản tố, đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần hai nhưng vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, xử vắng mặt bị đơn.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, xử không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị Ch và anh V, giao con chung của anh V và chị Ch cho chị Ch trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi cháu C trưởng thành hoặc anh V và chị Ch có thỏa thuận khác.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký là đúng quy định của pháp luật; việc chấp hành pháp luật của đương sự kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: các đương sự đã chấp hành pháp luật đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 14; Điều 15; Khoản 1,2 Điều 81, khoản 1,3 điều 82, khoản 1,2 điều 83 của Luật Hôn nhân gia đình; khoản 2 Điều 206, khoản 4 điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Xử không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị Vàng Thị Ch và anh Cư Seo V; Về con: Giao cho chị Ch trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục cháu Cư Đức C, sinh ngày 13/3/2008 cho đến khi trưởng thành, anh V không phải cấp dưỡng nuôi con; Tuyên nghĩa vụ chịu án phí theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

-Chị Vàng Thị Ch và anh Cư Seo V chung sống với nhau từ năm 2007 nhưng không đăng ký kết hôn nên thuộc trường hợp “nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn” theo quy định tại Điều 14 của Luật hôn nhân và gia đình. Trong đơn khởi kiện chị Ch có yêu cầu Tòa án giải quyết về quan hệ hôn nhân, nuôi con chung, do đó Tòa án thụ lý giải quyết vụ án “Tranh chấp về nuôi con của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn” theo quy định tại khoản 7 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Tòa án đã tiến hành thu thập chứng cứ nên phiên tòa có sự tham gia của Viện Kiểm sát theo quy định tại khoản 2 Điều 21 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

-Về quan hệ hôn nhân: Chị Vàng Thị Ch và anh Cư Seo V chung sống với nhau từ năm 2007 không đăng ký kết hôn nên hôn nhân của anh chị không được pháp luật bảo vệ theo quy định tại khoản 1 Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình, do đó không phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng theo khoản 1 Điều 14 Luật hôn nhân và gia đình. Chị Vàng Thị Ch có đơn khởi kiện yêu cầu tòa án giải quyết ly hôn, Tòa án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng theo quy định tại khoản 2 Điều 53 của Luật Hôn nhân và gia đình.

-Về nuôi con và cấp dưỡng nuôi con: Chị Vàng Thị Ch và anh Cư Seo V đều xác nhận anh chị có một con chung là cháu Cư Đức C, sinh ngày 13/3/2008.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành lấy ý kiến của cháu C, cháu có nguyện vọng được ở với mẹ như vậy là phù hợp với ý kiến và nguyện vọng cũng như điều kiện hoàn cảnh của chị Ch và anh V. Do đó Hội đồng xét xử chấp nhận, giao cháu Cư Đức C cho chị Vàng Thị Ch tiếp tục trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc là phù hợp.

[3] Về tài sản và khoản nợ: Chị Vàng Thị Ch và anh Cư Seo V đều xác định anh chị không yêu cầu Tòa án giải quyết, do đó Hội đồng xét xử không xem xét.

[4]Về án phí: Nguyên đơn chị Vàng Thị Ch phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 14; Điều 15; khoản 2 Điều 53; các Điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân gia đình; khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

1/ Tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị Vàng Thị Ch và anh Cư Seo V.

2/Về con chung: Giao cháu Cư Đức C, sinh ngày 13/3/2008 cho chị Vàng Thị Ch trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến khi cháu C đủ 18 tuổi, anh Cư Seo V không phải cấp dưỡng nuôi con.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở, nhưng không được lạm dụng việc thăm nom con để gây khó khăn ảnh hưởng xấu đến việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung của người trực tiếp nuôi dưỡng.

3/Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Vàng Thị Ch phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn. Xác nhận chị Ch đã nộp 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai số AB/2012/0008183 ngày 29/3/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai.

4/Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

163
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 12/2021/HNGĐ-ST ngày 30/08/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:12/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường Khương - Lào Cai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;