Bản án 12/2021/HNGĐ-ST ngày 15/01/2021 về tranh chấp xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÁI BÈ, TỈNH TIỀN GIANG

 BẢN ÁN 12/2021/HNGĐ-ST NGÀY 15/01/2021 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN

 Ngày 15 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cái Bè xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 692/2020/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 11 năm 2020 về việc tranh chấp “Xin ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 321/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 28 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị NGUYỄN THỊ KIỀU TR, sinh năm 1992 (Có mặt) Địa chỉ: ấp A, xã Đ, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

2. Bị đơn: Anh VÕ HOÀNG V, sinh năm 1986 (Có mặt) Địa chỉ: ấp A, xã Đ, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, tờ tự khai không ghi ngày, tháng 10/2020 và lời khai tại Toà, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Kiều Tr trình bày:

Do quen biết nên chị và anh V xác lập quan hệ vợ chồng vào năm 2012, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ. Vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, không hợp tính tình, anh V thường xuyên nhậu nhẹt, không quan tâm vợ con, ghen tuông mù quáng kiếm chuyện đánh chửi chị nên vợ chồng thường cãi vả mất hạnh phúc. Anh chị đã ly thân từ ngày 10/10/2020 đến nay. Nay chị cương quyết yêu cầu được ly hôn anh V.

Con chung có một cháu tên Võ Hoàng Đ, sinh ngày 24/7/2013, hiện đang sống với anh V. Nay chị đồng ý để anh V tiếp tục nuôi cháu Đ, chị không phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Tự thỏa thuận và nợ chung không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Theo tờ tự khai không đề ngày tháng năm và lời khai tại Tòa, bị đơn anh Võ Hoàng V trình bày:

Anh thống nhất với lời trình bày của chị Tr về quan hệ hôn nhân, con chung, tài sản chung và nợ chung. Tuy nhiên, anh cho rằng vợ chồng sống hạnh phúc đến ngày 24/8/2020 thì phát sinh mâu thuẫn do chị Tr có dấu hiệu ngoại tình và vợ chồng không sống ly thân. Nay anh còn thương vợ con nên không đồng ý ly hôn.

Nếu giả sử, Tòa án cho vợ chồng ly hôn thì anh cũng đồng ý tiếp tục nuôi cháu Đ, không yêu cầu chị Tr cấp dưỡng nuôi con, tài sản chung tự thỏa thuận, nợ chung không có.

Tại phiên tòa, nguyên đơn chị Tr vẫn yêu cầu được ly hôn anh V; Yêu cầu được nuôi con chung, thống nhất với việc anh V tự nguyện cấp dưỡng nuôi con 2.000.000đ/tháng đến khi cháu Đ tròn 18 tuổi; Tài sản chung tự thỏa thuận; Nợ chung không có nên không yêu cầu giải quyết. Bị đơn anh V không đồng ý ly hôn nhưng nếu Tòa án cho ly hôn thì anh cũng đồng ý giao cháu Đ cho chị Tr nuôi, anh tự nguyện cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000đ đến khi tròn 18 tuổi; Tài sản chung tự thỏa thuận; Nợ chung không có nên không yêu cầu giải quyết.

Ý kiến của kiểm sát viên tại phiên tòa: Về tố tụng: Việc tuân thủ pháp luật của Thẩm phán, của Hội đồng xét xử và của các đương sự chấp hành đúng qui định của pháp luật tố tụng dân sự. Hiện tại thì chưa phát hiện sai sót gì để kiến nghị khắc phục. Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Tr, cho chị Tr được ly hôn anh V; Giao con chung cho chị Tr nuôi, ghi nhận việc anh V tự nguyện cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 2.000.000đ; Về tài sản chung: Anh chị thống nhất tự thỏa thuận và nợ chung không có nên không cần đặt ra xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Tại phiên tòa, chị Tr và anh V đều trình bày thống nhất là anh chị xác lập quan hệ vợ chồng vào năm 2012, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ. Tuy nhiên, chị Tr cho rằng vợ chồng chỉ sống hạnh phúc đến năm 2014 là phát sinh mâu thuẫn do anh V thường xuyên nhậu nhẹt, không quan tâm vợ con, ghen tuông mù quáng kiếm chuyện đánh chửi chị nên vợ chồng hay tranh cãi làm mất tình cảm, không còn hạnh phúc và anh chị đã ly thân từ tháng 10/2020 cho đến nay. Bản thân anh V thì cho rằng vợ chồng cũng có phát sinh mâu thuẫn do chị Tr có mối quan hệ với người đàn ông khác bên ngoài và anh chị không có sống ly thân nhưng anh không đồng ý ly hôn. Xét thấy, cho chị Tr được ly hôn anh V là có cơ sở để chấp nhận. Bởi lẽ, trong thời gian ly thân, trong các buổi hòa giải cũng như tại phiên tòa, anh V không đưa ra được bất kỳ giải pháp nào thiết thực, thuyết phục chị Tr để vợ chồng hàn gắn, sắp xếp mâu thuẫn gia đình dung hòa cuộc sống chung trong khi đó bản thân chị Tr đã xác định không còn tình cảm vợ chồng, không muốn đoàn tụ với anh V nên không có biện pháp nào để vợ chồng sum họp được. Từ các phân tích trên xác định cuộc sống hôn nhân của anh chị đã thật sự đổ vỡ, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Cho nên, chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Tr là có căn cứ, phù hợp với quy định tại Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[2] Về con chung: Có một cháu tên Võ Hoàng Đ, sinh ngày 24/7/2013, hiện đang sống với anh V. Xét thấy, giao con chung cho chị Tr nuôi là có cơ sở để chấp nhận. Bởi lẽ, anh V cũng đồng ý cho Tr nuôi cháu Đ nếu vợ chồng ly hôn và bản thân cháu Đ cũng có mong muốn được sống với mẹ. Do đó, để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt và phù hợp với nguyện vọng của con chung nên giao cháu Đ cho chị Tr nuôi là phù hợp với quy định tại Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về cấp dưỡng nuôi con: Tại phiên tòa, anh V tự nguyện cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 2.000.000đ đến khi trưởng thành tròn 18 tuổi và chị Tr cũng đồng ý với mức cấp dưỡng mà anh V đưa ra như trên. Xét thấy, đây là quyền tự định đoạt của đương sự và phù hợp với quy định tại Điều 116 của Luật Hôn nhân và gia đình nên được ghi nhận.

[4] Về tài sản chung: Anh, chị thống nhất tự thỏa thuận nên không đặt ra giải quyết.

[5] Về nợ chung: Anh chị đều thống nhất trình bày không có nên không đặt ra giải quyết.

[6] Về án phí: Chị Tr phải chịu 300.000đ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, anh V phải chịu 300.000đ án phí cấp dưỡng nuôi con theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

[7] Xét ý kiến phát biểu của vị đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ, phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự; Điều 51, Điều 55, Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 59, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 107, Điều 110, Điều 116, Điều 117 của Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Xử:

Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Kiều Tr. Cho chị Nguyễn Thị Kiều Tr được ly hôn anh Võ Hoàng V.

Về con chung: Giao cháu Võ Hoàng Đ, sinh ngày 24/7/2013 cho chị Tr nuôi.

Ghi nhận việc anh V tự nguyện cấp dưỡng nuôi con chung với số tiền 2.000.000đ/tháng. Thời gian thực hiện ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật đến khi con chung trưởng thành (tròn 18 tuổi).

Sau khi ly hôn, anh V có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Kể từ ngày chị Tr có đơn yêu cầu thi hành án nếu anh V chậm thi hành đối với phần tiền cấp dưỡng thì còn phải trả lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.

Về tài sản chung: Tự thỏa thuận nên không đặt ra xem xét.

Về nợ chung: Không có nên không đặt ra xem xét.

Về án phí: Chị Tr phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Chị đã nộp 300.000 đồng tạm ứng án phí theo các biên lai số 0004316 ngày 05/11/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C nên xem như thi hành xong.

Anh Vũ phải chịu 300.000đ án phí cấp dưỡng nuôi con.

Về quyền kháng cáo: Đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các qui định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

147
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án 12/2021/HNGĐ-ST ngày 15/01/2021 về tranh chấp xin ly hôn

Số hiệu:12/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cái Bè - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;