Bản án 12/2021/HNGĐ-ST ngày 05/02/2021 về tranh chấp hôn nhân gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 12/2021/HNGĐ-ST NGÀY 05/02/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

Ngày 05 tháng 02 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 04/2021/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 01 năm 2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 11/2021/QĐXX-ST ngày20/01/2021giữa các đương sự:

-Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị N, sinh năm 1980 Địa chỉ: Tổ 3X, thị trấn A, huyện Q, tỉnh Thái Bình.

- Bị đơn: Anh Trần Văn Th, sinh năm 1979 Địa chỉ: Tổ 3X, thị trấn A, huyện Q, tỉnh Thái Bình. (Chị N, anh Th có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện,bản tự khai và các tài liệu chứng cứ đã xuất trình thì nguyên đơn là chị Nguyễn Thị N có yêu cầu khởi kiện và trình bày tại phiên tòa như sau:

Về quan hệ hôn nhân: Chị kết hôn với anh Trần Văn Th do tự nguyện tìm hiểu và có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân thị trấn A, huyện Q, tỉnh Thái Bình vào ngày 02/3/2001. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống tại gia đình anh Th ở Tổ 3X, thị trấn A, huyện Q. Vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do anh Th không tu chí làm ăn, hay rượu chè rồi về chửi bới, đánh đập vợ con, hay buông lời chê bai chị. Đã nhiều lần chị tha thứ nhưng anh Th không sửa đổi. Từ tháng 5 năm 2020, chị N về nhà mẹ đẻ ở cùng tổ 3X, thị trấn A sinh sống đến tháng 10 năm 2020 vì nghĩ đến con, chị lại về nhà ở cùng anh Th khoảng 10 ngày nhưng do nhận thấy anh Th vẫn không thay đổi nên chị tiếp tục về nhà mẹ đẻ chị ở và ly thân với anh Th cho đến nay. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, hôn nhân không mang lại hạnh phúc nên chị N đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Trần Văn Th.

Về con chung: Chị N trình bày, vợ chồng có 02 con chung là Trần Văn Th1, sinh ngày 23/12/2001 và Trần Văn V, sinh ngày 04/4/2003. Con Th1 đã trưởng thành nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết. Con V chưa đủ 18 tuổi và đang sống cùng anh Th. Ly hôn, chị đề nghị Tòa án giao Con V cho anh Th trực tiếp nuôi dưỡng, chị không phải góp tiền cấp dưỡng nuôi con cho anh Th và có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung. Hiện tại chị N không có thai nghén gì.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị N trình bày, vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Tại bản tự khai, các tài liệu chứng cứ đã xuất trìnhvà tại phiên tòa,bị đơn là anh Trần Văn Th trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Về điều kiện, hoàn cảnh, thời gian kết hôn như chị N trình bày là đúng. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống tại gia đình nhà anh ở Tổ 3X, thị trấn A, huyện Q. Vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh có uống rượu dẫn tới xô xát, cãi nhau với gia đình bên vợ, anh thừa nhận có chửi và chê vợ, anh biết mình đã sai. Từ tháng 5 năm 2020 chị N bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở, sau đó đến tháng 10 năm 2020 chị N có về nhà 10 ngày rồi lại tiếp tục sang nhà bố mẹ đẻ ở cho đến nay. Trong thời gian vợ chồng ly thân, anh đã sửa chữa sai lầm, chịu khó làm ăn, anh mong muốn vợ chồng về đoàn tụ để bảo ban con cái nên không đồng ý ly hôn với chị N.

Về con chung: Anh Th trình bày, vợ chồng có 02 con chung là Trần Văn Th1, sinh ngày 23/12/2001 và Trần Văn V, sinh ngày 04/4/2003. Con Th1 đã trưởng thành, anh không yêu cầu Tòa án giải quyết. Con V chưa đủ 18 tuổi và đang ở cùng anh. Nếu ly hôn xảy ra anh đề nghị Tòa án giao Con V cho anh trực tiếp nuôi dưỡng, không yêu cầu chị N phải góp tiền cấp dưỡng nuôi con cho anh. Chị N có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung. Hiện nay anh làm nghề chạy xe ôm, có thu nhập và Con V cũng đã tự đi làm, điều kiện nhà cửa sinh hoạt cho con cái đều đảm bảo.

Về tài sản chung, nợ chung: Anh Th trình bày để vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình có quan điểm cho rằng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án. Nguyên đơn, bị đơn đã chấp hành đúng pháp luật trong quá trình tham gia tố tụng. Về ý kiến giải quyết vụ án, Đại diệnViện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xửcăn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình giải quyết theo hướng: Xử cho chị Nguyễn Thị N được ly hôn anh Trần Văn Th; về con chung: Đề nghị giao con chung Trần Văn V, sinh ngày 04/4/2003cho anh Trần Văn Th trực tiếp nuôi dưỡng, anh Th không yêu cầu chị N phải góp tiền cấp dưỡng nuôi Con V, chị N có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung. Đối với con Trần Văn Th1, sinh ngày 23/12/2001, đã trên 18 tuổi nên không đặt ra giải quyết; về tài sản chung, nợ chung: Không đặt ra giải quyết; về án phí: Nguyên đơn phải nộp án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Đại diện Viện kiểm sát không có yêu cầu, kiến nghị gì thêm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung giữa chị Nguyễn Thị N và anh Trần Văn Th là tranh chấp hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Các đương sự đều có địa chỉ cư trú tại Tổ 3X, thị trấn A, huyện Q, tỉnh Thái Bình nên Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thực hiện việcthu thập chứng cứ, xác minh về tình trạng hôn nhân, con chung của vợ chồng, vì vậy Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên toà là đúng theo Điều 21 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Xét thấy, quan hệ hôn nhân của chị N, anh Th được xác lập trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do không tìm được tiếng nói chung. Chị N đã về nhà mẹ đẻ ở từ tháng 10 năm 2020 đến nay. Chị N cho rằng anh Th không chịu khó làm ăn, hay đánh chửi và chê bai chị còn anh Th cũng thừa nhận có sai lầm và khẳng định trong thời gian chị N về nhà đẻ ở anh đã cố gắng sửa đổi bản thân, mong chị N nghĩ lại để vợ chồng cùng đoàn tụ nuôi dạy con cái.Quá trình thụ lý, giải quyết, Tòa án đã kiên trì hòa giải, động viên để hai bên đoàn tụ song không có kết quả, chị N vẫn cương quyết đề nghị giải quyết ly hôn vì chị không còn niềm tin với anh Th. Do đó, có cơ sở xác định mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần xử cho chị N được ly hôn anh Th là phù hợp quy định của pháp luật.

[3] Về quan hệ con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Trần Văn Th1, sinh ngày 23/12/2001 và Trần Văn V, sinh ngày 04/4/2003. Con Trần Văn Th1 đã trưởng thành nên Tòa án không đặt ra giải quyết. Đối với con Trần Văn V, dù chưa đủ 18 tuổi song con đã tự đi làm, có thu nhập và đang sống cùng nhà với anh Th. Trường hợp ly hôn xảy ra, cả chị N, anh Th đều đề nghị Tòa án giao Con V cho anh Th trực tiếp nuôi dưỡng, chị N không phải góp tiền cấp dưỡng nuôi Con V và có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung. Bản thân Con V cũng có nguyện vọng được ở cùng bố nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Chị N, anh Th đều không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

[5] Về án phí và quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị N phải nộp án phí dân sự sơ thẩm; các đương sự có quyền kháng cáo bản ántheo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Tuyên xử:

1.Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị N được ly hôn anh Trần Văn Th.

2.Về quan hệ con chung:Xử giao anh Trần Văn Th trực tiếp nuôi dưỡng con chung Trần Văn V, sinh ngày 04/4/2003, cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có thay đổi theo quy định của pháp luật. Anh Thkhông yêu cầu chị N phải góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung. Chị N có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung.

Đối với con chung là Trần Văn Th1, sinh ngày 23/12/2001, đã trên 18 tuổi, có khả năng lao động nên không đặt ra giải quyết.

3.Về quan hệ tài sản chung, nợ chung:Không đặt ra để giải quyết.

4.Về án phí:Chị Nguyễn Thị N phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm nhưng được đối trừ với tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ(ba trăm nghìn đồng) tại biên lai số 0004678 ngày 05/01/2021của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình. Chị N đã nộp đủ tiền án phí sơ thẩm.

Chị Nguyễn Thị N, anh Trần Văn Th có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (05/02/2021)./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

186
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 12/2021/HNGĐ-ST ngày 05/02/2021 về tranh chấp hôn nhân gia đình

Số hiệu:12/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;