Bản án 12/2020/HS-ST ngày 29/04/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý 

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN V - TỈNH THÁI BÌNH

 BẢN ÁN 12/2020/HS-ST NGÀY 29/4/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 29 tháng 4 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 11/2020/TLST-HS ngày 12 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 10/2020/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo:

Phạm Tuấn A, sinh ngày 20/8/1991 tại huyện V, tỉnh Thái Bình; nơi cư trú: thôn C, xã B, huyện V, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Lái xe; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; trình độ học vấn: 9/12; con ông: Phạm Bá B, đã chết và bà Trịnh Thị C, sinh năm 1971;bị cáo chưa có vợ, con;

- Tiền án, tiền sự: Không.

- Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày từ ngày 16/01/2020, đến ngày 19/01/2020 chuyển tạm giam, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện V. (Có mặt) 

2. Người làm chứng:

- Anh Trịnh Xuân U, sinh năm 1975;

Nơi cư trú: Thôn T, xã B, huyện V, tỉnh Thái Bình.

- Anh Nguyễn Như T, sinh năm 1981;

Nơi cư trú: Thôn C, xã B, huyện V, tỉnh Thái Bình;

- Anh Trịnh Văn T, sinh năm 1983;

Nơi cư trú: Thôn L, xã B, huyện V, tỉnh Thái Bình.

(Anh U, anh T, anh T vắng mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phạm Tuấn A là lái xe của Công ty Trách nhiệm hữu hạn thương mại một thành viên Habeco, chi nhánh tỉnh Phú Thọ. Khoảng 18 giờ ngày 15/01/2020, bị cáo điều khiển xe ôtô, nhãn hiệu Toyota Hilux, biển kiểm soát 29C- 371.xx của Công ty từ Hà Nội về nhà ở thôn C, xã B, huyện V, tỉnh Thái Bình. Khi đi đến cầu Đá, thuộc địa phận thành phố N, tỉnh Nam Định, Tuấn A dừng xe, xuống gặp và mua của một người đàn ông khoảng 30 tuổi, không quen biết 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) được 01 túi ma túy đá cất giấu vào túi quần đang mặc rồi tiếp tục điều khiển xe ô tô đi về tỉnh Thái Bình. Khoảng 21 giờ 30 phút cùng ngày, Tuấn A đi bộ sang nhà anh Trịnh Xuân U chơi, ngồi uống nước cùng một số người khác. Đến 23 giờ 15 phút, tổ công tác Công an huyện V đến nhà anh U kiểm tra hành chính, Tuấn A tự khai nhận đang cất giấu ma túy đá trong người, mục đích để sử dụng. Trước sự chứng kiến của anh Trịnh Xuân U và những người đang có mặt tại nhà anh U, tổ công tác kiểm tra, thu giữ tại túi quần bên trái phía trước Tuấn A đang mặc 01 túi nilon trong suốt, bên trong chứa chất dạng tinh thể màu trắng. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng, quản lý của Tuấn A 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, vỏ màu vàng đã cũ. Cùng ngày, khám xét khẩn cấp chỗ ở của Phạm Tuấn A tại thôn C, xã B, huyện V, tỉnh Thái Bình nhưng không phát hiện, thu giữ gì.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như trên.

Tại Bản kết luận giám định số 30/KLGĐ - PC09 ngày 16/01/2020 của  Phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: “Mẫu vật gửi giám  định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,2369 gam (Không phẩy hai nghìn ba trăm sáu mươi chín gam). Methamphetamine STT: 323, Danh mục II, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ”.

Bản cáo trạng số: 14/CT-VKSVT ngày 12/3/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện V đã truy tố Phạm Tuấn A về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự .

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện V giữ nguyên quan điểm như đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự, tuyên bố: Bị cáo Phạm Tuấn A phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”; xử phạt: Phạm Tuấn A  mức  án  từ  01  năm  đến  01  năm  03  tháng  tù,  thời  hạn  tù  tính  từ  ngày 16/01/2020. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo vì bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, thu nhập không ổn định.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu số ma túy, loại Methamphetamine sau giám định hoàn lại còn lại 0,1962 gam Methamphetamine và toàn bộ bao gói trong phong bì niêm phong số 30/KLGĐ - PC09 ngày 16/01/2020 của  Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình để tiêu huỷ.

Tuyên trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone vỏ màu vàng đã cũ, đã qua sử dụng là tài sản hợp pháp của bị cáo và không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện V, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện V, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến gì và không khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Các chứng cứ buộc tội bị cáo:

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra và nội dung bản cáo trạng đã mô tả và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác thu thập được có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V lập hồi 23 giờ 30 phút ngày 15/01/2020; Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V, tỉnh Thái Bình lập ngày 16/01/2020; Bản kết luận giám định số 30/KLGĐ - PC09 ngày 16/01/2020 của Phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Thái Bình; Biên bản ghi lời khai của những người làm chứng: Anh Trịnh Xuân U, anh Nguyễn Như T và anh Trịnh Văn T.

Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 23 giờ 15 phút ngày 15 tháng 01 năm 2020, tại nhà ở của anh Trịnh Xuân U ở thôn T, xã B, huyện V, tỉnh Thái Bình, tổ công tác Công an huyện V, tỉnh Thái Bình đã phát hiện , bắt quả  tang  Phạm Tuấn  A có hành vi  tàng  trữ trái  phép  01 túi  ma  túy, loại Methamphetamine có khối lượng 0,2369 gam (Không phẩy hai nghìn ba trăm sáu mươi chín gam), mục đích để sử dụng. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự .

Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy, quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

...

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam.”

[3] Đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo:

Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, loại Methaphetamine có khối lượng 0,2369 gam của Phạm Tuấn A là nguy hiểm cho xã hội. Hành vi đó đã xâm phạm đến những quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma tuý, ngoài ra còn xâm phạm đến trật tự, an toàn xã hội và an ninh quốc gia. Trong những năm gần đây, tình hình tệ nạn ma túy đã và đang trở thành hiểm họa lớn của toàn nhân loại. Ma túy gây tác hại cho sức khoẻ, làm suy thoái nòi giống, phẩm giá con người, phá hoại hạnh phúc gia đình. Đặc biệt, ma túy đá còn là nguyên nhân chủ yếu làm phát sinh nhiều loại tội phạm, tệ nạn xã hội và lây nhiễm HIV/AIDS.

[4] Đánh giá về nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Về nhân thân của bị cáo: Bị cáo Phạm Tuấn A có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do vậy, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Căn cứ vào hành vi phạm tội của bị cáo, nhân thân của bị cáo và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy: Cần xử phạt bị cáo một mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hậu quả của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, buộc bị cáo phải cách ly khỏi xã hội một thời gian nhất định mới đủ tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo đồng thời có tác dụng chung trong việc đấu tranh và phòng ngừa tội phạm.

Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm; tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.

Xét thấy, bị cáo Phạm Tuấn A mua ma túy về sử dụng cho bản thân, không  nhằm mục đích vụ lợi. Bị cáo là đối tượng nghiện, không có thu nhập ổn định. Do vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng, xử lý vật chứng:

Đối với số ma túy, loại Methamphetamine hoàn lại sau giám định còn 0,1962 gam Methamphetamine  và  toàn bộ bao gói trong phong bì niêm phong số 30/KLGĐ - PC09 ngày 16/01/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình là vật chứng của vụ án, thuộc loại Nhà nước độc quyền quản lý và cấm tàng trữ nên cần tịch thu để tiêu huỷ.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone vỏ màu vàng đã cũ, đã qua sử dụng là tài sản hợp pháp của bị cáo và không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần tuyên trả lại cho bị cáo nhưng tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án.

[6] Về các vấn đề khác trong vụ án:

Đối với người đàn ông khoảng 30 tuổi bán ma túy cho bị cáo tại khu vực cầu Đá, thuộc địa phận thành phố N, tỉnh Nam Định, bị cáo khai không biết tên, địa chỉ nên không có căn cứ để xử lý.

Đối với các anh Trịnh Xuân U, Nguyễn Như T, Trịnh Văn T không biết việc  Phạm Tuấn A tàng trữ trái phép ma túy trong người nên không có căn cứ để xử lý.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Điều 135; Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị  quyết  326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của  Ủy ban thường vụ Quốc hội.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Phạm Tuấn A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

2. Về hình phạt: Xử phạt Phạm Tuấn Anh 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 16 tháng 01 năm 2020.

3. Về vật chứng, xử lý vật chứng:

Tịch thu số ma túy, loại Methamphetamine sau giám định hoàn lại còn 0,1962 gam và  toàn bộ bao gói trong phong bì niêm phong số 30/KLGĐ - PC09 ngày 16/01/2020  của  Phòng  kỹ thuật  hình  sự  Công  an  tỉnh  Thái  Bình  để tiêu huỷ.

Tuyên trả cho bị cáo: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone vỏ màu vàng đã cũ, đã qua sử dụng nhưng tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án.

(Vật chứng của vụ án đã chuyển Chi cục Thi hành án dân sự huyện V  theo Phiếu nhập kho vật chứng ngày 17 tháng 3 năm 2020).

4. Về án phí: Bị cáo Phạm Tuấn A phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

5. Về quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo Phạm Tuấn A có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 29 tháng 4 năm 2020.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 12/2020/HS-ST ngày 29/04/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý 

Số hiệu:12/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vũ Thư - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;