Bản án 12/2020/HS-ST ngày 18/02/2020 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GÒ DẦU, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 12/2020/HS-ST NGÀY 18/02/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 18 tháng 02 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 02/2020/HSST ngày 08 tháng 01 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 08/2020/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 02 năm 2020, đối với các bị cáo:

1. Võ Văn V (B) sinh năm 1996, tại tỉnh Tây Ninh; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và nơi cư trú hiện nay: ấp P, xã P, Huyện G, tỉnh Tây Ninh; Nghề nghiệp: Làm mướn; Trình độ V hóa: 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không có; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Võ V T và Nguyễn Thị Kim C; Vợ con chưa có; Tiền án: Ngày 21-3-2019, bị Tòa án nhân dân Huyện Gò Dầu xử phạt 06 tù cho hưởng án treo về tội “Đánh bạc” chưa chấp hành xong bản án; Tiền sự: Không. Bị cáo đang chấp hành án từ ngày 16-7-2019 đến nay theo bản án số 98/2019/HSST ngày 18-10-2019 của Tòa án nhân dân Huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh. (Vắng mặt).

2. Ngô Văn T, sinh năm 1995, tại tỉnh Tây Ninh; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và nơi cư trú hiện nay: ấp S, xã P, Huyện G, tỉnh Tây Ninh; Nghề nghiệp: Làm mướn; Trình độ V hóa: 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Ngô Văn Đ và bà Nguyễn Thị Hồng L; Vợ: Trịnh Thị Bé T; Con chưa có; Tiền án: Ngày 02-8-2019, bị Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh xử phạt 09 tháng tù về tội “ Đánh bạc” chưa chấp hành xong bản án; Tiền sự: Không; Nhân thân: Năm 2013, phạm tội mua bán trái phép chất ma túy, đã chấp hành xong bản án. Bị cáo bị bắt đi chấp hành án từ ngày 23-8-2019 cho đến nay theo bản án số 96/2019/HSPT ngày 02-8-2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh. (Vắng mặt).

3. Nguyễn Tú A, sinh năm 1983, tại tỉnh Tây Ninh; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và nơi cư trú hiện nay: ấp S, xã P, Huyện G, tỉnh Tây Ninh; Nghề nghiệp: Làm mướn; Trình độ V hóa: 4/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Văn K (chết) và bà Huỳnh Thị E; Vợ: Nguyễn Thị P (Đã ly hôn); Có 01 người con sinh năm 2002; Tiền án: Ngày 21-3-2019, bị Tòa án nhân dân Huyện Gò Dầu xử phạt 06 tháng tù cho hưởng án treo về tội đánh bạc, nhưng chưa chấp hành án xong. Không; Tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 22-10-2019 cho đến nay.(Có mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Nguyễn Thành T, sinh năm: 1987.

Địa chỉ: KP N, thị trấn G, Huyện G, tỉnh Tây Ninh. (Vắng mặt).

2. Ngô Duy T, sinh năm: 1988.

Địa chỉ: ấp T, xã Đ, Huyện T, tỉnh Tây Ninh. (Vắng mặt).

3. Nguyễn Hoài B, sinh năm: 1985.

Địa chỉ: ấp P, xã P, Huyện G, tỉnh Tây Ninh. (Vắng mặt).

4. Lê Hồng Quang H, sinh năm: 1996.

Địa chỉ: KPN, thị trấn G, Huyện G, tỉnh Tây Ninh. (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Các bị cáo Nguyễn Tú A, Ngô Văn T và Võ Văn V đều có 01 tiền án về tội đánh bạc chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục thực hiện hành vi đánh bạc thắng thua bằng tiền, cụ thể như sau:

Ngày 07-7-2019, Nguyễn Thành T đem máy bắn cá đến nhà của Nguyễn T T thuộc ấp S, xã P, Huyện G, giao cho T quản lý và tổ chức đánh bạc cho nhiều người tham gia dưới hình thức chơi game bắn cá thắng thua bằng tiền, từng người tham gia ăn thua trực tiếp với T và được quy đổi điểm thành tiền với tỷ lệ 10.000 điểm thành 100.000 đồng, lợi nhuận T và T sẽ chia đôi. Trong quá trình tổ chức đánh bạc, Nguyễn Quốc T có phụ giúp T đổi tiền thành điểm và đổi điểm thành tiền cho người tham gia. Từ ngày 08-7-2019 đến 16 giờ ngày 09-7-2019, T tổ chức cho những người tham gia đánh bạc gồm: Bị cáo Võ V V sử dụng 3.700.000 đồng để đánh bạc, thua hết tiền; Nguyễn Quốc T sử dụng 2.600.000 đồng để đánh bạc, thua hết tiền; Lê Minh T sử dụng 300.000 đồng để đánh bạc, thua hết tiền, Nguyễn Minh H sử dụng 200.000 đồng để đánh bạc, thua hết tiền;

Phạm Đức L sử dụng 100.000 đồng để đánh bạc, thua hết tiền; Nguyễn Tú A sử dụng 100.000 đồng để đánh bạc, thua hết tiền; Ngoài ra, còn có một số người tham gia nhưng không rõ lý lịch.

Sau đó, giữa T và T xảy ra mâu thuẫn về việc chia lợi nhuận nên khoảng 20 giờ ngày 09-7-2019, T thuê Phan T H đến nhà T tiếp tục trông coi và tổ chức cho những người tham gia đánh bạc gồm: Bị cáo Nguyễn Tú A sử dụng 200.000 đồng để đánh bạc, thua hết tiền; Nguyễn Quốc T sử dụng 500.000 đồng để đánh bạc, thua hết tiền; Nguyễn V H sử dụng 200.000 đồng để đánh bạc, thua hết tiền; Phạm Đức L sử dụng 100.000 đồng để đánh bạc, thua hết tiền. Đến 23 giờ cùng ngày, máy bắn cá bị hư hỏng nên tất cả nghỉ chơi. Ngày 10-7-2019, Công an Huyện Gò Dầu kiểm tra hành chính lập biên bản tạm giữ 01 máy bắn cá để làm rõ xử lý.

Ngày 15-8-2019, Lê Hồng Quang H đặt máy bắn cá tại quán cà phê 338 của Trần Hoài T thuộc ấp P, xã P, Huyện G, để tổ chức đánh bạc dưới hình thức chơi game bắn cá thắng thua bằng tiền, từng người tham gia ăn thua trực tiếp với H và được quy đổi điểm thành tiền với tỷ lệ 10.000 điểm thành 100.000 đồng; H thỏa T với T, khi có lời sẽ cho T tiền thì T đồng ý. Khoảng 19 ngày 17-8-2019, H tổ chức cho những người tham gia đánh bạc gồm: Bị cáo Nguyễn Tú A sử dụng 100.000 đồng để đánh bạc, thua hết tiền; Ngô V Thái sử dụng 50.000 đồng để đánh bạc, thắng được 400.000 đồng; Ngô Duy T sử dụng 100.000 đồng để đánh bạc, thua hết tiền; Nguyễn Hoài B sử dụng 400.000 đồng để đánh bạc, thua 100.000 đồng; Ngoài ra, còn có Nguyễn T L và một số người không rõ lý lịch tham gia. Đến 20 giờ 50 phút cùng ngày, Công an Huyện Gò Dầu đến kiểm tra phát hiện lập biên bản vi phạm hành chính, tạm giữ 01 máy chơi game bắn cá và 350.000 đồng để làm rõ xử lý.

Kết quả thu giữ và xử lý vật chứng: Đối với 02 máy trò chơi điện tử game bán cá; 02 điện thoại di động các loại; 01 thẻ nhựa màu xA; Tiền Việt Nam 350.000 đồng.

Về kê biên tài sản: Qua kết quả xác minh thể hiện các bị can không có tài sản nên Cơ quan điều tra không tiến hành kê biên.

Đối với Nguyễn Thành T, Phan T H, Nguyễn T T, Lê Hồng Quang H, Trần Hoài T, Nguyễn Quốc T có hành vi tổ chức đánh bạc và Nguyễn Quốc T, Nguyễn Minh Hải, Nguyễn V H, Phạm Đức L, Ngô Duy T, Nguyễn Hoài B có hành vi đánh bạc nhưng do chưa có tiền án, tiền sự về tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc và chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự nên Cơ quan điều tra cHển xử phạt hành chính là có căn cứ.

Đối với Nguyễn T Long có hành vi đánh bạc, nhưng do chưa có tiền án, tiền sự về tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc và đã bỏ địa phương đi đâu không rõ, khi nào làm việc được xử lý sau.

Tại bản Cáo trạng số: 09/QĐ-KSĐT ngày 07 tháng 01 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân Huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh đã truy tố các bị cáo về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo về tội dA, điều luật áp dụng cũng như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 56 Bộ luật Hình sự, xử phạt các bị cáo:

Võ V V mức án từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù, tổng hợp bản án sơ thẩm số 22/2019/HS-ST ngày 21-3-2019 của Tòa án nhân dân Huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh xử phạt bị cáo Võ V V 06 tháng tù cho hưởng án treo và bản án sơ thẩm số 98/2019/HS-ST ngày 18-10-2019 của Tòa án nhân dân Huyện Gò Dầu xử phạt bị cáo Võ V V 01 năm 06 tháng tù. Buộc bị cáo V phải chấp hành hình phạt chung là 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù.

Ngô V Thái mức án từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù, tổng hợp bản án phúc thẩm số 96/2019/HS-PT ngày 02-8-2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh xử phạt bị Ngô Quốc Thái 09 tháng tù. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 01 năm 09 tháng đến 02 năm 03 tháng tù.

Nguyễn Tú A mức án từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù, tổng hợp bản án sơ thẩm số 22/2019/HS-ST ngày 21-3-2019 của Tòa án nhân dân Huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh xử phạt bị cáo Nguyễn Tú A 06 tháng tù cho hưởng án treo. Buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung là 01 năm 06 tháng đến 02 năm.

Xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật và buộc các bị cáo V nộp lại số tiền 3.700.000 đồng; A nộp lại số tiền 400.000 đồng; Thái nộp lại số tiền 50.000 đồng sung ngân sách nhà nước.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo A xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả trA luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, trA luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của các bị cáo thực hiện: Các bị cáo Nguyễn Tú A, Ngô V Thái và Võ V V đều có 01 tiền án về tội đánh bạc chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục thực hiện hành vi đánh bạc thắng thua bằng tiền, cụ thể: Từ ngày 08-7- 2019 đến ngày 09-7-2019, tại ấp Suối Cao A, xã Phước Đông, Huyện Gò Dầu bị cáo V đã sử dụng 3.700.000 đồng và bị cáo A đã sử dụng 300.000 đồng tham gia đánh bạc; Ngày 17-8-2019, tại ấp Phước Đức B, xã Phước Đông, Huyện Gò Dầu bị cáo A sử dụng 100.000 đồng và bị cáo Thái sử dụng 50.000 đồng tham gia đánh bạc. Do đó hành vi của các bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự.

[3] Vụ án mang tính chất ít nghiêm trọng, hành vi phạm tội của các bị cáo cũng vì mục đích tư lợi cá nhân, muốn có thu lợi bất chính cao bằng hình thức cờ bạc mà bất chấp pháp luật, làm mất trật tự trị an tại địa phương, gây ảnh hưởng xấu đến đời sống xã hội. Nên phải xử nghiêm mới có tác dụng răn đe và phòng ngừa chung trong xã hội.

[4] Xét đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa là có căn cứ tương xứng với mức độ nguy hiểm của hành vi mà các bị cáo đã thực hiện.

[5] Tình tiết tăng nặng: Không có.

[6] Tình tiết giảm nhẹ: Các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;

[7] Xét thấy các bị cáo đã có tiền án về tội đánh bạc chưa chấp hành xong, cụ thể: Ngày 21-3-2019, Tòa án nhân dân Huyện Gò Dầu xử phạt mỗi bị cáo V 06 tháng tù và bị cáo A 06 tháng tù cho hưởng án treo; Ngày 02-8-2019, Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh xử phạt bị cáo Thái 09 tháng tù. Sau đó các bị cáo tiếp tục thực hiện hành phạm tội cụ thể: Từ ngày 08-7-2019 đến ngày 09-7-2019, bị cáo V đã sử dụng 3.700.000 đồng và bị cáo A đã sử dụng 300.000 đồng tham gia đánh bạc; Ngày 17-8-2019, bị cáo A sử dụng 100.000 đồng và bị cáo Thái sử dụng 50.000 đồng tham gia đánh bạc. Do các bị cáo V và A phạm tội trong thời gian thử thách của 06 tháng tù cho hưởng án treo nên 06 tháng tù cho hưởng án treo được cHển thành 06 tháng tù. Ngoài ra đối với bị cáo V còn bị Tòa án nhân dân Huyện Gò Dầu xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “ Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Do đó cần áp dụng Điều 56 của Bộ luật hình sự tổng hợp bản án đối với các bị cáo.

[8] Biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 47, 48 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; Vật chứng:

Đối với 02 máy trò chơi điện tử game bán cá là của A Nguyễn Thành T 01 máy và của A Lê Hồng Quang H 01 máy là vật chứng dùng vào việc phạm tội và 01 thẻ nhựa màu xA không có giá trị nên tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại di động hiệu Samsung J7 Pro, màu vàng đồng đã qua sử dụng là của A Ngô Duy T và 01 điện thoại di động hiệu Nokia 101, màu đen, đã qua sử dụng của A Nguyễn Hoài B không liên quan đến việc phạm tội nên tuyên trả lại cho A T và A B là có căn cứ.

Đối với số tiền Việt Nam 350.000 đồng là vật chứng dùng vào việc phạm tội nên tịch thu sung ngân sách nhà nước.

Buộc các bị cáo V nộp lại số tiền 3.700.000 đồng; A nộp lại số tiền 400.000 đồng; Thái nộp lại số tiền 50.000 đồng sung ngân sách nhà nước.

[9] Xét thấy các bị cáo không có nghề nghiệp ổn định và không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[10] Về án phí: Các bị cáo Võ V V, Ngô V Thái, Nguyễn Tú A mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Các bị cáo Võ Văn V (B), Ngô Văn T, Nguyễn Tú A phạm tội “Đánh bạc”.

Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 56 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt các bị cáo:

Võ Văn V (B) 01 (Một) năm tù. Tổng hợp bản án sơ thẩm số 22/2019/HS- ST ngày 21-3-2019 của Tòa án nhân dân Huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh xử phạt bị cáo Võ V V 06 tháng tù cho hưởng án treo và bản án sơ thẩm số 98/2019/HS- ST ngày 18-10-2019 của Tòa án nhân dân Huyện Gò Dầu xử phạt bị cáo Võ Văn V 01 năm 06 tháng tù. Buộc bị cáo Văn phải chấp hành hình phạt chung của ba bản án là 03 năm tù. Thời hạn chấp hành phạt tù tính từ ngày 16-7-2019.

Nguyễn Tú A 01 (Một) năm tù. Tổng hợp bản án sơ thẩm số 22/2019/HS- ST ngày 21-3-2019 của Tòa án nhân dân Huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh xử phạt bị cáo Nguyễn Tú A 06 tháng tù cho hưởng án treo. Buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 22-10-2019.

Ngô Văn T 01 (Một) năm tù. Tổng hợp bản án phúc thẩm số 96/2019/HS- PT ngày 02-8-2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh xử phạt bị Ngô Văn T 09 tháng tù. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 01 (Một) năm 09 (Chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 23-8-2019.

2. Biện pháp tư pháp: Căn Cứ các Điều 47, 48 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Tịch thu tiêu hủy 01 máy trò chơi điện tử game bán cá của A Nguyễn Thành T và 01 máy trò chơi điện tử game bán cá của A Lê Hồng Quang H.

Tuyên trả 01 điện thoại di động hiệu Samsung J7 Pro, màu vàng đồng đã qua sử dụng cho A Ngô Duy T và 01 điện thoại di động hiệu Nokia 101, màu đen, đã qua sử dụng cho A Nguyễn Hoài B.

Tịch thu sung ngân sách nhà nước số tiền Việt Nam 350.000 đồng.

Buộc các bị cáo: V nộp lại số tiền 3.700.000 đồng; A nộp lại số tiền 400.000 đồng; Thái nộp lại số tiền 50.000 đồng sung ngân sách nhà nước.

3. Án phí: Căn cứ Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội.

Buộc mỗi bị cáo V, Thái và A phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, báo cho bị cáo cho A biết có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh. Riêng các bị cáo V Thái và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền tự thỏa T thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

352
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 12/2020/HS-ST ngày 18/02/2020 về tội đánh bạc

Số hiệu:12/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gò Dầu - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;