Bản án 12/2020/HS-ST ngày 17/01/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VĨNH YÊN, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 12/2020/HS-ST NGÀY 17/01/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17 tháng 01 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Yên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 156/2019/HSST ngày 10 tháng 12 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2020/QĐXXST- HS ngày 02/01/2020 đối với bị cáo:

Lê Duy H , sinh ngày: 20/10/1970 tại Yên Bái; nơi cư trú: Thôn M, xã Y, huyện S, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hoá: 7/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Duy Đ và bà Đỗ Thị Đ; có vợ là Hà Thị L (đã ly hôn) và có 02 con (con lớn sinh năm 2000, con nhỏ sinh năm 2001); Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Năm 1995, Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang xử phạt Lê Duy H 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản Xã hội chủ nghĩa, ra trại ngày 11/7/1996. Ngày 12/6/1996 H đã nộp án phí hình sự sơ thẩm; năm 2011, Lê Duy H đi cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm Giáo dục lao động xã hội số III Hà Nội và bị quản lý sau cai nghiện ma túy tại Trung tâm Giáo dục lao động hướng nghiệp thanh niên Hà Nội, ra khỏi Trung tâm ngày 01/6/2015. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/9/2019 đến nay, (có mặt).

Người bào chữa cho bị cáo: Bà Kim Hồng Thanh- Trợ giúp viên pháp lý- Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước, tỉnh Vĩnh Phúc, (vắng mặt).

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Lê Duy H , sinh năm 1973; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Phố C, thị trấn Lập T, huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc, (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 07 giờ 15 phút ngày 24/09/2019, Lê Duy H một mình điều khiển xe máy BKS: 89C1-274.6X từ nhà đến khu vực ngõ 9, đường Ngô Quyền, khu hành chính 10, phường Đống Đa, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc tìm mua ma túy để sử dụng. H gõ cửa sổ của 01 ngôi nhà cấp 4 (không nhớ đặc điểm, địa chỉ cụ thể) bên trong có người hé cửa sổ (H không nhìn thấy mặt, không biết đặc điểm, giới tính cụ thể của người này). H nói với người bên trong cửa sổ hỏi mua ma túy heroin với giá 500.000,đ rồi đưa qua khe cửa tờ tiền mệnh giá 500.000,đ, người bên trong cửa sổ nhận tiền và đẩy 01 gói ma túy heroin qua khe cửa cho H . Sau khi mua được ma túy, H cầm gói ma tuý vừa mua được trên tay trái rồi điều khiển xe máy BKS: 89C1-274.6X tìm chỗ để sử dụng. Khi H điều khiển xe đi được khoảng 30m thì bị Tổ công tác Công an phường Đống Đa, thành phố Vĩnh Yên làm nhiệm vụ, phát hiện, thu giữ: Tại tay trái của H 01 gói giấy nhỏ bên trong chứa chất bột màu trắng, H khai là ma tuý heroin vừa mua với giá 500.000,đ để sử dụng cho bản thân, được niêm phong, ký hiệu A1; tạm giữ của H chiếc xe máy nhãn hiệu Honda, BKS: 89C1-274.61.

Ngày 24/9/2019, Cơ quan điều tra Công an thành phố Vĩnh Yên Quyết định trưng cầu giám định số tang vật thu giữ ký hiệu A1. Tại Kết luận giám định số 1992/KL-GĐ ngày 27/09/2019 của Phòng kỹ hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận: “Chất bột màu trắng của mẫu ký hiệu A1 gửi đến giám định là ma túy lẫn tạp chất, loại Heroin. Heroin là chất ma tuý nằm trong danh mục I, STT 9, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ. Khối lượng của mẫu gửi giám định là 1,6873 gam (Một phảy sáu tám bảy ba gam, không kể bao bì). Khối lượng Heroin trong 1,6873 gam mẫu là 0,2048g (không phảy hai không bốn tám gam). Hoàn lại mẫu vật còn lại sau giám định cho cơ quan trưng cầu gồm: A1= 1,2929 gam mẫu và toàn bộ bao gói.

Cáo trạng số 02/CT-VKSTP.VY ngày 10/12/2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Yên truy tố bị cáo Lê Duy H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa bị cáo Lê Duy H khai nhận thành khẩn về hành vi phạm tội của mình như nội dung nêu trên.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Lê Duy H vắng mặt, tuy nhiên quá trình điều tra khai nhận phù hợp với nội dung nêu trên (bút lục 74-77, 85-92).

Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng. Căn cứ tính chất, mức độ phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lê Duy H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015, xử phạt bị cáo Lê Duy H từ 18 tháng đến 24 tháng tù; áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự 2015; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015: Tịch thu tiêu hủy 1,2929 gam ma túy (heroin) và toàn bộ bao gói còn lại sau giám định. Xác nhận Cơ quan điều tra đã thu giữ và trả lại 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda BKS: 89C1-274.6X cho anh Lê Duy H là hợp pháp; không áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với bị cáo.

Người bào chữa cho bị cáo vắng mặt tại phiên tòa nhưng gửi bản bào chữa cho bị cáo và đề nghị: Do bị cáo là hộ nghèo, có hoàn cảnh kinh tế rất khó khăn, không có việc làm ổn định, chỉ vì không làm chủ được bản thân bị cáo đã vi phạm pháp luật và đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015 giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo không bào chữa và tranh luận gì, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận của bị cáo Lê Duy H tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa phù hợp với nhau; phù hợp với lời khai của người làm chứng về thời gian, địa điểm, mục đích, động cơ phạm tội; phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang; phù hợp với vật chứng đã thu giữ và kết luận giám định cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy, có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 09 giờ ngày 24/09/2019, tại khu hành chính 10, phường Đống Đa, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, Lê Duy H có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị Tổ công tác Công an phường Đống Đa, thành phố Vĩnh Yên phát hiện tang vật thu giữ: 01 gói giấy nhỏ chứa chất cục, bột màu trắng, kết quả giám định là ma túy lẫn tạp chất, loại heroin, trọng lượng heroin trong 1,6873g mẫu là 0,2048g, hoàn trả 1,2929 gam ma túy (heroin) và toàn bộ bao gói còn lại sau giám định.

Hành vi nêu trên của bị cáo Lê Duy H đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017), có khung hình phạt đến 05 năm tù.

Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của Lê Duy H là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến trật tự quản lý xã hội, chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn xã hội, làm nhân dân lên án và bất bình. Do đó cần phải xử lý nghiêm nhằm giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

Bị cáo phạm tội theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 có mức cao nhất của khung hình phạt tù đến 05 năm tù nên theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 9 của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì trường hợp nêu trên thuộc tội phạm nghiêm trọng.

Trước khi phạm tội bị cáo đã từng bị xử về tội “Trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa”, đã bị đưa vào cai nghiện bắt buộc. Mặc dù không bị tính là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, nhưng thể hiện bị cáo là người có nhân thân xấu bị cáo không lấy đó làm bài học để tu sửa rèn luyện bản thân mà tiếp tục thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng cho bản thân. Nên cần chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù một thời gian nhất định để giáo dục cải tạo bị cáo sớm trở thành người công dân có ích cho xã hội.

Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xem xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo đó là: Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo đã “Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” để giảm nhẹ một phần hình phạt theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015 Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không bị áp dụng.

[2] Về hình phạt bổ sung: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa xác định bị cáo H không có tài sản riêng, không có thu nhập ổn định là hộ nghèo, nên Hội đồng xét xử không áp dụng phạt tiền đối với bị cáo.

[3] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai báo phù hợp với quy định của pháp luật và không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[4] Đối với người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và hành vi liên quan trong vụ án:

Đối với người ở trong ngôi nhà cấp 4, ngõ 9, đường Ngô Quyền, thuộc phường Đống Đa, thành phố Vĩnh Yên. Do H không nhớ vị trí, đặc điểm ngôi nhà và người bán ma túy qua khe cửa sổ ngôi nhà. Quá trình điều tra chưa xác định được đối tượng bán ma túy là ai. Do vậy, Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra, khi nào làm rõ xử lý sau.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave, BKS: 89C1-274.6X tạm giữ của Lê Duy H , quá trình điều tra xác định là tài sản của anh Lê Duy H (em trai H ), ở thị trấn Lập Thạch, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc. Ngày 23/9/2019, H mượn chiếc xe máy BKS: 88C1-274.61 của anh Hậu để đi mua ma tuý, anh Hậu không biết. Ngày 28/11/2019, Cơ quan điều tra Công an thành phố Vĩnh Yên đã trả lại chiếc xe máy nhãn hiệu Honda, BKS: 88C1-274.61 cho anh Lê Duy H đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì về bồi thường dân sự.

[5] Về Vật chứng của vụ án:

Số ma túy còn lại sau giám định gồm 1,2929 gam ma túy (heroin) và toàn bộ bao gói còn lại sau giám định cần tịch thu tiêu hủy.

[6] Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015, xử phạt bị cáo Lê Duy H 02 (hai) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam bị cáo, ngày 24/9/2019.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu, tiêu hủy 1,2929 gam ma túy (heroin) và toàn bộ bao gói còn lại sau giám định (Đặc điểm tang vật như biên bản giao nhận vật chứng ngày 13/12/2019).

Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án; bị cáo Lê Duy H phải chịu 200.000,đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

146
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 12/2020/HS-ST ngày 17/01/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:12/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;