Bản án 12/2020/HS-ST ngày 11/02/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ - TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 12/2020/HS-ST NGÀY 11/02/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 02 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 08/2020/TLHS-HS ngày 17 tháng 01 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10/2020/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 01 năm 2020, đối với bị cáo:

Lê Anh D, sinh năm 1992 tại Hà Nam; tên gọi khác: không; Nơi cư trú: Xóm Đ, thôn D, xã C, huyện D, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 3/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Đình S (đã chết) và bà Nguyễn Như T, sinh năm 1958; vợ, con: chưa có; Tiền án: Không; tiền sự: Ngày 28/10/2016 Tòa án nhân dân huyện D, tỉnh Hà Nam ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc thời hạn 24 tháng (chấp hành xong ngày 20/11/2018).

Nhân thân: Các ngày 10/6/2016, 14/7/2016, 18/8/2016, 10/9/2016 đều bị Công an xã C, huyện D xử phạt hành chính cảnh cáo về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; ngày 15/6/2016 Chủ tịch UBND xã C, huyện D ra quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã thời hạn 03 tháng.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/11/2019 đến nay; hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Nam; Có mặt.

Những người tham gia tố tụng khác:

+ Người làm chứng: Ông Trịnh Xuân Ng, sinh năm 1958; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 12 giờ 30 phút ngày 22/11/2019, D đang ở nhà tại xóm Đ, thôn D, xã C, huyện D, tỉnh Hà Nam thì có bạn nghiện tên D1 khoảng 30 tuổi (D không biết họ tên đầy đủ và địa chỉ) đến rủ D đi mua ma túy để sử dụng vì D1 đang có tiền, D đồng ý lên xe máy của D1. D1 chở D đến khu vực cầu C, thành phố Phủ Lý thì dừng xe, D1 bảo D đứng đợi để D1 đi mua ma túy. D1 điều khiển xe máy đi, khoảng 15 phút sau quay lại đưa cho D 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng còn D1 đi mua xi lanh. Biết bên trong vỏ bao thuốc lá có ma túy nên D không mở ra kiểm tra mà cầm ở trong lòng bàn tay phải. Khoảng 13 giờ 15 phút tổ công tác Công an phường Lương Khánh Thiện, thành phố Phủ Lý làm nhiệm vụ tại khu vực tổ 9, phường Lương Khánh Thiện, thành phố Phủ Lý phát hiện tại khu vực vòng xuyến cầu Châu Giang một nam thanh niên có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu kiểm tra. D liền thả từ lòng bàn tay phải 01 bao thuốc lá Thăng Long màu vàng xuống nền đường trước mặt thì bị lực lượng công an phát hiện, thu giữ. Kiểm tra bên trong bao thuốc lá có chứa 01 gói giấy bạc màu vàng, bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục. Tại chỗ D khai nhận 01 gói giấy bạc màu vàng bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục mà lực lượng công an vừa thu giữ là ma túy của D cất giữ mục đích để sử dụng. Lực lượng công an đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Lê Anh D, thu giữ vật chứng gồm: 01 gói giấy bạc màu vàng bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục niêm phong trong phong bì, 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng.

Ngày 23/11/2019 Cơ quan CSĐT Công an thành phố Phủ Lý thi hành lệnh khám xét khẩn cấp đối với chỗ ở của Lê Anh D ở thôn D, xã C, huyện D, tỉnh Hà Nam. Quá trình khám xét không thu giữ đồ vật, tài liệu gì liên quan đến vụ án.

Tại bản kết luận giám định số 202/PC09-MT ngày 27/11/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam kết luận “Mẫu bột màu trắng dạng cục trong phong bì gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,164g, loại Heroine.

Tại bản cáo trạng số 18/CT-VKS-PL ngày 17/01/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã truy tố Lê Anh D về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 (sau đây gọi tắt là BLHS).

Tại phiên tòa: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố đối với Lê Anh D theo toàn bộ nội dung bản cáo trạng, không có ý kiến thay đổi, bổ sung gì. Sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 50 của Bộ luật Hình sự xử phạt Lê Anh D mức án từ 24 đến 30 tháng tù, không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Đề nghị áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự để xử lý vật chứng của vụ án.

Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình cơ bản như bản cáo trạng đã mô tả và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối với người tham gia tố tụng là người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai của họ, được cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Do vậy Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử là đúng quy định của pháp luật.

[3] Đánh giá về tội danh: Tại phiên tòa bị cáo Lê Anh D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản phạm tội quả tang, phù hợp với lời khai của người làm chứng, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, bản kết luận của cơ quan chuyên môn cũng như các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án mà cơ quan điều tra đã thu thập được. Như vậy Hội đồng xét xử có đủ căn cứ và cơ sở kết luận: Khoảng 13 giờ 15 phút ngày 22/11/2019 tại khu vực tổ 9, phường L, thành phố Phủ Lý, Lê Anh D đang cất giấu trái phép ma túy, khối lượng 0,164 gam, loại Heroine, mục đích để sử dụng thì bị lực lượng công an phường Lương Khánh Thiện phát hiện bắt quả tang. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Quan điểm truy tố và luận tội của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đối với bị cáo là có căn cứ pháp luật, đúng người, đúng tội.

[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đều thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân rất xấu, hiện đang có một tiền sự về áp dụng biện pháp xử lý hành chính cai nghiện bắt buộc và nhiều lần bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy nhưng không lấy đó làm bài học để tu dưỡng bản thân mà tiếp tục phạm tội cho thấy bị cáo rất coi thường pháp luật.

[5] Về hình phạt chính, hình phạt bổ sung:

Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình an ninh trật tự trên địa bàn thành phố Phủ Lý, là nguyên nhân trực tiếp phát sinh nhiều tệ nạn xã hội và tội phạm nguy hiểm khác gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Cân nhắc các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo cần tuyên mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà bị cáo thực hiện, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng cải tạo, giáo dục đối với bị cáo và nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là người nghiện ma túy, mục đích tàng trữ ma túy để sử dụng không có mục đích trục lợi nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Xử lý vật chứng: Đi với toàn bộ số ma túy trong phong bì niêm phong đã hoàn trả sau giám định và 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long thu giữ của bị cáo cần tịch thu tiêu hủy.

[7] Các tình tiết khác của vụ án: Đối với người thanh niên tên D1, bị cáo khai là người đưa ma túy cho D cất giữ để sử dụng. Cơ quan CSĐT Công an thành phố Phủ Lý đã tiến hành xác minh nhưng không xác định được nhân thân lai lịch. Ngoài lời khai của D không còn tài liệu chứng cứ nào khác nên không có căn cứ để xử lý trong vụ án này.

[8] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9] Quyền kháng cáo: Bị cáo được thực hiện theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 47; Điều 50 của Bộ luật Hình sự.

Căn cứ các Điều 106; 135; 136; 331; 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Căn cứ Luật Phí và Lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1/ Tuyên bố bị cáo Lê Anh D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Lê Anh D 30 (ba mươi) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 22 tháng 11 năm 2019 2/ Xử lý vật chứng:

Tch thu tiêu hủy 01 phong bì đã niêm phong dán kín mặt trước có ghi mẫu vật hoàn trả số 202/PC09-MT và 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng.

Tình trạng vật chứng như trong biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 17/01/2020 giữa Cơ quan CSĐT Công an thành phố Phủ Lý với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phủ Lý.

4/ Án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Lê Anh D phải nộp: 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7, 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành bản án được quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

162
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 12/2020/HS-ST ngày 11/02/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:12/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;