Bản án 12/2020/HNGĐ-ST ngày 24/07/2019 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG ANA, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 12/2020/HNGĐ-ST NGÀY 24/07/2019 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 24 tháng 7 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Krông Ana, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 26/2020/TLST-HNGĐ ngày 27 tháng 02 năm 2020 về “Ly hôn và tranh chấp nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 09 tháng 6 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa ngày 29 tháng 6 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Nguyễn Đức H, sinh năm 1982 (có mặt).

Đa chỉ: Buôn T, xã D, huyện K, tỉnh Đăk Lăk.

2. Bị đơn: Chị Trịnh Thị H1, sinh năm 1984 (vắng mặt).

Địa chỉ: Buôn T, xã D, huyện K, tỉnh Đăk Lăk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Ti đơn khởi kiện đề ngày 19/02/2020 và trong quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án nguyên đơn anh Nguyễn Đức H trình bày: Anh kết hôn với chị Trịnh Thị H1 trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn tại UBND xã D, huyện K, tỉnh Đắk Lắk vào ngày 26/3/2008. Sau khi kết hôn, anh chị cư trú và sinh sống tại thôn B, xã D, huyện K, tỉnh Đăk Lăk. Quá trình chung sống, vợ chồng hạnh phúc được 10 năm, sau đó phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống. Từ đó vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cãi vả, xô xát nhau. Anh chị đã sống ly thân từ năm 2018 đến nay. Nhận thấy giữa anh và chị H1 không còn tình cảm, không còn thương yêu nhau nên anh H yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh ly hôn chị Trịnh Thị H1.

Về con chung: Anh H và chị H1 có 04 con chung là Nguyễn Thị Ngọc A, sinh ngày 22/02/2009; Nguyễn Thị Ngọc Á, sinh ngày 02/12/2012; Nguyễn Thị Xuân M, sinh ngày 12/5/2014; Nguyễn Thị M1, sinh ngày 26/7/2016. Từ khi vợ chồng ly thân đến nay, các con chung do anh H trực tiếp nuôi dưỡng, khi ly hôn, anh H có nguyện vọng được tiếp tục nuôi dưỡng các con chung, không yêu cầu chị H1 cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Anh H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ: Anh chị không nợ ai và cũng không ai nợ vợ chồng anh chị nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ đầy đủ các văn bản tố tụng cho bị đơn chị Trịnh Thị H1 để tham gia tố tụng thực hiện quyền và nghĩa vụ của đương sự tại Tòa án. Chị H1 vắng mặt tại buổi làm việc, không tham gia phiên họp và hòa giải, không tham gia phiên tòa. Tòa án căn cứ vào quy định của Bộ luật tố tụng dân sự để xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên phát biểu việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa cũng như việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng đảm bảo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về thẩm quyền giải quyết vụ án, xác định tư cách pháp lý và mối quan hệ của những người tham gia tố tụng, thu thập chứng cứ, về thời hạn chuẩn bị xét xử, quyết định đưa vụ án ra xét xử, gửi thông báo thụ lý vụ án đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình; bị đơn không thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật.

Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ các Điều 56; 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên xử:

- Chấp nhận đơn khởi kiện của anh Nguyễn Đức H, cho anh H được ly hôn với chị Trịnh Thị H1.

- Về con chung: Anh H và chị H1 có 04 con chung: Nguyễn Thị Ngọc A, sinh ngày 22/02/2009; Nguyễn Thị Ngọc Á, sinh ngày 02/12/2012; Nguyễn Thị Xuân M, sinh ngày 12/5/2014; Nguyễn Thị M1, sinh ngày 26/7/2016. Quá trình tham gia tố tụng, các đương sự không có tranh chấp về việc nuôi dưỡng con chung. Cần tiếp tục giao các con chung cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng.

- Về cấp dưỡng nuôi con chung: Anh H không yêu cầu chị H1 cấp dưỡng nuôi con nên không đề cập giải quyết.

-Về tài sản chung: Khi ly hôn, các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: anh H xác định không có nợ ai nên không đề cập giải quyết.

- Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn anh H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Anh Nguyễn Đức H có đơn khởi kiện ly hôn chị Trịnh Thị H1 và xin nuôi con chung. Hội đồng xét xử xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là “Ly hôn và tranh chấp nuôi con”. Bị đơn cư trú tại buôn T, xã D, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Krông Ana, tỉnh Đăk Lăk.

[2] Về thủ tục tố tụng: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng hợp lệ cho các đương sự tham gia tố tụng để thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ khi tham gia tố tụng; bị đơn chị Trịnh Thị H1 đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt tại phiên tòa không có lý do. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định của pháp luật.

[3] Về các yêu cầu của đương sự:

- Về quan hệ hôn nhân: Anh Nguyễn Đức H và chị Trịnh Thị H1 có đăng ký kết hôn tại UBND xã D, huyện K vào ngày 26/3/2008, đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận. Quá trình chung sống, vợ chồng hạnh phúc được một thời gian dài, sau đó phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm, không hòa hợp, vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vả, xô xát nhau, mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng mà không thể hàn gắn được, hiện hai người đã sống ly thân. Từ những nguyên nhân trên, anh H yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết cho anh ly hôn chị H1.

Kết quả xác minh tại chính quyền địa phương cho thấy, vợ chồng anh H, chị H1 đã xảy ra mâu thuẫn xô xát nhiều lần, hiện hai người đã sống ly thân.

Hi đồng xét xử xét thấy, thực tế mâu thuẫn trong quan hệ hôn nhân giữa anh H và chị H1 đã xảy ra, mâu thuẫn đã trầm trọng và kéo dài, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Hiện hai người đã sống ly thân, việc kéo dài tình trạng hôn nhân sẽ không đem lại kết quả tốt cho các bên. Từ những nhận định trên, cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh H, cho anh H được ly hôn với chị H1 là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

- Về con chung: Anh H và chị H1 có 04 con chung là Nguyễn Thị Ngọc A, sinh ngày 22/02/2009; Nguyễn Thị Ngọc Á, sinh ngày 02/12/2012; Nguyễn Thị Xuân M, sinh ngày 12/5/2014; Nguyễn Thị M1, sinh ngày 26/7/2016, hiện các cháu đang sống với anh H. Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, anh H có nguyện vọng được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng các con chung. Xét thấy yêu cầu trên của nguyên đơn phù hợp với điều kiện và tình hình thực tế giữa các bên. Cần tiếp tục giao các con chung cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến khi thành niên.

- Về cấp dưỡng nuôi con: Anh H không yêu cầu chị H1 cấp dưỡng nuôi con nên không đề cập giải quyết.

- Về tài sản chung: Nguyên đơn anh H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Nguyên đơn xác nhận không có nên không đề cập giải quyết.

[4] Xét đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ, đúng pháp luật.

[5] Về án phí: Nguyên đơn anh Nguyễn Đức H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự; các điều 56; 81; 82; 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh Nguyễn Đức H.

- Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa anh Nguyễn Đức H và chị Trịnh Thị H1.

- Về nuôi con chung: Giao các con chung là Nguyễn Thị Ngọc A, sinh ngày 22/02/2009; Nguyễn Thị Ngọc Á, sinh ngày 02/12/2012; Nguyễn Thị Xuân M, sinh ngày 12/5/2014; Nguyễn Thị M1, sinh ngày 26/7/2016 cho anh Nguyễn Đức H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Anh H không yêu cầu chị H1 cấp dưỡng nuôi con nên không đề cập giải quyết.

Chị H1 có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở.

- Về án phí: Anh Nguyễn Đức H phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Krông Ana, biên lai số 0003748 ngày 25 tháng 02 năm 2020.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

166
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 12/2020/HNGĐ-ST ngày 24/07/2019 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

Số hiệu:12/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Krông A Na - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;