Bản án 12/2019/HS-ST ngày 16/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẾN CẦU, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 12/2019/HS-ST NGÀY 16/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 4 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 21/HS-ST ngày 28 tháng 3 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/2019/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 4 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Lê Minh V, sinh năm 1989 tại tỉnh Tây Ninh; nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và nơi cư trú hiện nay: Ấp An L, xã An H, huyện Trảng B, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Trí Thức (đã chết) và bà Nguyễn Thị Hấn; vợ, con: Chưa có; tiền án và tiền sự: không có; nhân thân: ngày 23/11/2012, bị Tòa án nhân dân huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh xử phạt 06 (sáu) tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 (mười hai) tháng về tội đánh bạc; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 18/02/2019 đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Đặng Hoàng M, sinh năm 1989 tại tỉnh Tây Ninh; nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và nơi cư trú hiện nay: Ấp Hòa L, xã An H, huyện Trảng B, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: Làm mướn; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Đặng Thành Tư và bà Lê Thị Huê; vợ: Ngô Thị Kiều Loan; con: Có 02 người, lớn nhất sinh năm2011 và nhỏ nhất sinh năm 2017; tiền án và tiền sự: chưa có; nhân thân: chưa bị xử lý hành chính lần nào và chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự lần nào; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 18/02/2019 đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Bà Lê Thị H, sinh năm 1957. Địa chỉ: Ấp Hòa L, xã An H, huyện Trảng B, tỉnh Tây Ninh, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lúc 0 giờ 30 phút ngày 18/01/2019, phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Tây Ninh phối hợp cùng Công an huyện Bến Cầu kiểm tra phòng hát tên Hàn Quốc quán Karaoke Hải Triều thuộc ấp Chánh, xã An Thạnh, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh phát hiện Lê Minh V cất giấu 05 viên nén màu xanh và Đặng Hoàng M cất giấu 01 viên nén màu xanh trong người, nghi là ma túy nên tiến hành lập biên bản hành chính, tạm giữ tang vật để xử lý.

Quá trình điều tra,V và M khai nhận: Khoảng 23 giờ ngày 17/01/2019, V đi cùng M và Trần Thị Lệ Hằng đến quán bia Clup tại ấp Chánh, xã An Thạnh, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh uống bia. Tại đây, V được một người thanh niên, không rõ lai lịch cho nữa viên ma túy dạng viên nén màu xanh, V sử dụng hết và hỏi mua của người thanh niên trên 06 viên ma túy dạng viên nén màu xanh với giá 2.000.000 đồng để sử dụng. Sau đó, V nói với M và rủ Hằng đến quán Karaoke Hải Triều thuộc ấp Chánh, xã An Thạnh, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh thuê phòng hát tên Hàn Quốc sử dụng. Tại đây, V đưa cho M nữa viên ma túy, M sử dụng một phần tư viên, còn một phần tư viên cất trong người, V đưa cho Hằng nữa viên ma túy, Hằng sử dụng hết. Riêng V cất giấu 05 viên ma túy còn lại trong gối ôm tại phòng Karaoke và để trên người. Đến 0 giờ 30 phút ngày 18/01/2019, phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Tây Ninh phối hợp cùng Công an huyện Bến Cầu kiểm tra hành chính thì phát hiện thu giữ số ma túy trên trong người của V, M.

Kết luận giám định số: 119/KL-KTHS ngày 21/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh xác định: Mẫu 01 viên nén màu xanh (kí hiệu M1) gửi đến giám định là chất ma túy, là loại MDMA, khối lượng 0,3351 gam; Mẫu 05 viên nén màu xanh (kí hiệu M2) gửi đến giám định là chất ma túy, là loại MDMA, khối lượng 1,9971 gam.

Vật chứng thu giữ: 01 gói niêm phong vụ số 119/KL-KTHS tất cả có chữ ký của giám định viên Nguyễn Thị Tuyết Mai; 01 điện thoại di động hiệu Iphone, màu đen, đã qua sử dụng có nhiều vết trầy sướt, số Imel: 359190070781485; 01 điện thoại di động hiệu Iphone, màu trắng, đã qua sử dụng có nhiều vết trầy sướt, số Imel: 358805057114100; 01 điện thoại di động hiệu Samsung, màu đen, đã qua sử dụng có nhiều vết trầy sướt, số Imel: 355726097330667; 01 xe ô tô hiệu Vios, biển số 70A-154.64; Tiền Việt Nam 5.000.000 đồng.

Cơ quan CSĐT Công an huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh đã trả lại cho bàHuê 01 xe ô tô hiệu Vios, biển số 70A-154.64, số máy 2NRX292290, số khung9F35J5036796 do bà Lê Thị Huê là chủ sở hữu, bà Huê đã nhận lại xong.

Đối với người thanh niên bán ma túy cho V không rõ lai lịch chưa làm việc được, khi nào làm việc được xử lý sau.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Lê Minh V, Đặng Hoàng M, Trần Thị Lệ Hằng, Công an huyện Bến Cầu đã xử phạt vi phạm hành chính.

Riêng Trần Thị Lệ Hằng không biết V và M tàng trữ trái phép chất ma túy và không chứng minh được Hằng đồng phạm trong việc tàng trữ trái phép chất ma túy nên không xử lý.

Tại bản cáo trạng số: 23/CT-VKS ngày 27 tháng 3 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Cầu đã truy tố Lê Minh V và Đặng Hoàng M về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” qui định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, Lê Minh V và Đặng Hoàng M đã khai nhận hành vi phạm tội như cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh giữ nguyên quan điểm mà VKSND huyện Bến Cầu đã truy tố, đề nghị tuyên bố Lê Minh V và Đặng Hoàng M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” qui định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Căn cứ điểm c Khoản 1 Điều 249, điểm s Khoản 1 Điều 51, Khoản 2 Điều 35, Khoản 5 Điều 249, Điều 38 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Lê M V từ 24 tháng đến 30 tháng tù, hình phạt bổ sung từ 5.000.000 đồng đến 7.000.000 đồng. Căn cứ điểm c Khoản 1 Điều 249, điểm s Khoản 1 Điều 51, Khoản 2 Điều 35, Khoản 5 Điều 249, Điều 38 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Đặng Hoàng M từ 12 tháng đến 15 tháng tù, hình phạt bổ sung từ 5.000.000 đồng đến 7.000.000 đồng, đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự xử lý vật chứng theo quy định pháp luật.

Bị cáo V và bị cáo M thống nhất với luận tội của Kiểm sát viên, không có ý kiến tranh luận, bào chữa.

Các bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo V và bị cáo M đều xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Bến Cầu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Cầu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục qui định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đánh giá về hành vi và định tội danh: Ngày 18/01/2019, tại phòng hát tên Hàn Quốc quán Karaoke Hải Triều thuộc ấp Chánh, xã An Thạnh, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh, phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Tây Ninh phối hợp cùng Công an huyện Bến Cầu kiểm tra Lê Minh V cất giấu 05 viên nén màu xanh và Đặng Hoàng M cất giấu 01 viên nén màu xanh trong người, nghi là ma túy nên tiến hành lập biên bản tạm giữ tang vật để xử lý. Tại kết luận giám định số: 119/KL-KTHS ngày 21/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh xác định: Mẫu 01 viên nén màu xanh (kí hiệu M1) là chất ma túy, là loại MDMA, khối lượng 0,3351 gam; Mẫu 05 viên nén màu xanh (kí hiệu M2) là chất ma túy, là loại MDMA, khối lượng 1,9971 gam. Hành vi của bị cáo V và bị cáo M đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” qui định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự như luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ.

Đối với người thanh niên bán ma túy cho V không rõ lai lịch chưa làm việc được, khi nào làm việc được xử lý sau.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Lê Minh V, Đặng Hoàng M, Trần Thị Lệ Hằng, Công an huyện Bến Cầu đã xử phạt vi phạm hành chính.

Riêng Trần Thị Lệ Hằng không biết V và M tàng trữ trái phép chất ma túy và không chứng M được Hằng đồng phạm trong việc tàng trữ trái phép chất ma túy nên không xử lý.

[3] Đánh giá về mức độ hành vi phạm tội: Vụ án mang tính chất nghiêm trọng, bản thân các bị cáo là người đã thành niên, biết tàng trữ ma túy sử dụng là pháp luật nghiêm cấm nhưng vì để thỏa mãn nhu cầu cá nhân các bị vẫn cố ý thực hiện. Hành vi phạm tội của các bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội đã trực tiếp xâm phạm đến sự độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, xâm phạm đến trật tự, an toàn xã hội, việc tàng trữ và sử dụng ma túy của các bị cáo là nguy hiểm cho cho bản thân, gia đình và xã hội. Bởi lẽ, người nghiện ma túy sẽ dễ bị thoái hóa nhân cách, rối loạn hành vi, có lối sống buông thả dễ vi phạm pháp luật, gây mất trật tự an toàn xã hội là một trong những nguyên nhân gia tăng các tệ nạn xã hội và tội phạm, nên cần phải xử lý nghiêm mới có tác dụng răn đe giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm.

[4] Xét về tính chất vụ án và mức độ phạm tội của từng bị cáo thì thấy rằng: Hành vi của các bị cáo trong vụ án này không có sự bàn bạc, phân công vai trò cụ thể nên đây là trường hợp đồng phạm giản đơn, không có tính tổ chức. Trong vụ án này bị cáo V là người có nhân thân xấu, tàng trữ số lượng ma túy nhiều hơn bị cáo M và là người giao ma túy cho bị cáo M để tàng trữ, nên phải chịu trách nhiệm hình sự cao nhất trong vụ án này. Bị cáo M có hành vi tàng trữ ma túy để sử dụng, nên phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội sau bị cáo V.

[5] Khi quyết định hình phạt, có xem xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo:

+ Tình tiết tăng nặng: Bị cáo V và bị cáo M không phải chịu tình tiết tăng nặng nào quy định tại Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

+ Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo V và bị cáo M thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ được qui định tại điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Ngoài ra bị cáo V có mẹ là người có công với cách mạng, có ông ngoại là liệt sĩ là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[6] Áp dụng hình phạt: Xét đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Cầu tại phiên tòa đề nghị là có căn cứ, bởi lẽ: các bị cáo phạm tội nghiêm trọng , do vậy cần áp dụng hình phạt tù để cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian, để cải tạo giáo dục cho các bị cáo trở thành công dân biết chấp hành pháp luật.

Ngoài ra, xét thấy bị cáo có tài sản nhất định nên cần phạt bổ sung bị cáo một khoản tiền để sung vào Ngân sách Nhà nước.

[7] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 viên nén màu xanh (kí hiệu M1) là chất ma túy, là loại MDMA, khối lượng 0,3351 gam, đã sử dụng hết trong quá trình giám định; 05 viên nén màu xanh (kí hiệu M2) là chất ma túy, là loại MDMA, khối lượng 1,9971 gam (còn lại sau khi giám định 1,5875 gam) cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Iphone, màu đen, số Imel: 359190070781485 và 01 điện thoại di động hiệu Iphone, màu trắng, số Imel: 58805057114100 của bị cáo V không liên quan đến hành vi phạm tội, nên cần trả lại cho bị cáo V.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Samsung, màu đen, số Imel: 355726097330667 của bị cáo M không liên quan đến hành vi phạm tội, nên cần trả lại cho bị cáo M.

- Số tiền Việt Nam 5.000.000 đồng (của bị cáo V 3.000.000 đồng; bị cáo M 2.000.000 đồng) không liên quan đến hành vi phạm tội, nên cần trả lại cho bị cáo V và bị cáo M.

Tuy nhiên cần tiếp tục tạm giữ tiền và điện thoại của bị cáo V và bị cáo M để đảm bảo việc thi hành án.

[8] Về án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Các bị cáo Lê Minh V và Đặng Hoàng M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Căn cứ điểm c Khoản 1, Khoản 5 Điều 249; điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Khoản 2 Điều 35, Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Lê Minh V 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 18 tháng 02 năm 2019.

Phạt bổ sung bị cáo V số tiền: 7.000.000 (bảy triệu) đồng sung vào ngân sách Nhà nước.

- Căn cứ điểm c Khoản 1, Khoản 5 Điều 249; điểm s Khoản 1 Điều 51; Khoản 2 Điều 35; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Đặng Hoàng M 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 18 tháng 02 năm 2019.

Phạt bổ sung bị cáo M số tiền: 5.000.000 (năm triệu) đồng sung vào ngân sách Nhà nước.

2. Vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: 01(một) viên nén màu xanh (kí hiệu M1) là chất ma túy, là loại MDMA, khối lượng 0,3351 gam, đã sử dụng hết trong quá trình giám định; 05(năm) viên nén màu xanh (kí hiệu M2) là chất ma túy, là loại MDMA, khối lượng 1,9971 gam (còn lại sau khi giám định 1,5875 gam).

Tạm giữ 01(một) điện thoại di động hiệu Iphone đã qua sử dụng, màu đen, số Imel: 359190070781485 và 01(một) điện thoại di động hiệu Iphone đã qua sử dụng, màu trắng, số Imel: 58805057114100 và 3.000.000 (ba triệu) đồng của bị cáo Lê Minh V để đảm bảo việc thi hành án.

Tạm giữ 01(một) điện thoại di động hiệu Samsung đã qua sử dụng, màu đen, số Imel: 355726097330667 và 2.000.000 (hai triệu) đồng của bị cáo Đặng Hoàng M để đảm bảo việc thi hành án.

(Theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 03 tháng 4 năm 2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016 ngày 30/12/2016 của UBTVQH về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án các bị cáo Lê Minh V và Đặng Hoàng M phải chịu mỗi bị cáo 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

Án hình sự sơ thẩm xử công khai, báo cho bị cáo V và bị cáo M; bà Huê được quyền kháng cáo theo trình tự thủ tục phúc thẩm lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp Bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

326
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 12/2019/HS-ST ngày 16/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:12/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bến Cầu - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;