Bản án 12/2019/HSST ngày 14/01/2019 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 12/2019/HSST NGÀY 14/01/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Trong các ngày 11 và 14 tháng 01 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 07/2019/TLST-HS ngày 24 tháng 12 năm 2018, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 12/2019/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 12 năm 2018 đối với bị cáo:

Đào Đức Đ, sinh ngày 16/12/1991 tại Thái Bình; Nơi cư trú: số nhà 04/01, ngõ 268, đường L, tổ 60, phường B, thành phố T, tỉnh T; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn) lớp 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đào Đức N và bà Trịnh Thị S; có vợ là Nguyễn Thị Thùy L và 01 con sinh năm 2016; Tiền án, tiền sự: không; nhân thân: Bản án số 53/2010/HSST ngày 13/4/2010 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh T xử 02 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy, thời hạn tù tính từ ngày 29/12/2009, đã được xóa án tích. Bản án số 177/2013/HSST ngày 04/11/2013 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh T xử 02 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy, thời hạn tù tính từ ngày 25/7/2013, đã chấp hành xong bản án, được xóa án tích; Bị cáo bị áp dụng biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú”, (có mặt)

- Bị hại: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1992; (vắng mặt)

Trú tại: số nhà 147, đường P, tổ 47, phường B, thành phố T, tỉnh T.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Anh Trần Văn B, sinh năm 1990; (vắng mặt)

Trú tại: Tổ 01, phường H, thành phố T, tỉnh T.

- Người làm chứng:

1. Anh Nguyễn Đức M, sinh năm 1989; (vắng mặt)

Trú tại: số nhà 147, đường P, tổ 47, phường B, thành phố T, tỉnh T

2. Chị Nguyễn Thị Thùy L, sinh năm 1995;

Trú tại: số nhà 04/01, ngõ 268, đường L, tổ 60, phường B, thành phố T, tỉnh T. (có mặt)

3. Bà Nguyễn Thị N (V), sinh năm 1963; (vắng mặt)

Trú tại: số nhà 73, đường N, tổ 31, phường B, thành phố T, tỉnh T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ ngày 10/8/2018, tại quán bia của bà Nguyễn Thị N (tức V) ở số nhà 73, đường N, tổ 31, phường B, thành phố T có Trần Văn B, Đào Đức Đ và Nguyễn Thị Thùy L (là vợ của Đ) đang ngồi uống bia thì anh Nguyễn Đức M cùng em gái là chị Nguyễn Thị H đến quán bia để mua đồ ăn. Do trước đó M có vay tiền của B chưa trả nên B có hỏi M “Tiền của tao giờ thế nào”, M nói “em chưa có”, B nói “Mày lừa tao bao nhiêu lần rồi”. Nghe thấy vậy thì Nguyễn Thị H tiến lại gần bàn uống bia, hỏi anh B “tiền gì, vay bao giờ”, B nói “tiền anh mày nợ tao lâu rồi”. Lúc này, Đ nói “Đ. phải việc của mày” và cầm chiếc cốc bằng thủy tinh đựng bia trên tay phải hắt bia vào người chị H, chị H chửi “thằng chó này”, thì Đ cầm cốc bia đứng đối diện chị H, giơ cốc lên đập theo hướng từ trên xuống dưới, từ phải qua trái trúng vào vùng đầu bên trái của chị H, chiếc cốc bị vỡ. Đ tiếp tục cầm cốc đựng bia đập nhát thứ hai theo hướng từ trên xuống dưới, từ phải qua trái trúng vào vùng mặt bên trái của chị H. Bình thấy vậy cũng cầm cốc đựng bia trên tay phải tiến lại phía chị H, đập một nhát theo hướng từ trên xuống dưới nhưng do anh M can ngăn đẩy B ra nên nhát đập đã trúng vào vai bên phải chị H, không gây thương tích gì. Được mọi người can ngăn nên Đ và B không đánh chị H nữa. Sau đó anh M đưa chị H đến Bệnh viện đa khoa tỉnh T để sơ cứu vết thương.

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 119/18/TgT ngày 10/9/2018 của Trung tâm pháp y - Sở y tế T, giám định tỷ lệ thương tích cho chị Nguyễn Thị H kết luận: “Nhiều thương tích phần mềm vùng đầu, mặt, cổ do vật tầy cứng có cạnh sắc tác động, đã được xử lý: cắt lọc, khâu cầm máu phục hồi vết thương, dùng các loại thuốc kháng sinh, giảm đau, chống viêm, chống phù nề, chăm sóc vết thương hàng ngày. Hiện tại các vết thương còn đau rát từng lúc, vết thương vùng thái dương trái còn sưng nề nhẹ, ấn đau. Còn hình ảnh cản quang phần mềm dưới da thái dương trái. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại thời điểm giám định là 11% (mười một phần trăm).

Quá trình điều tra, ban đầu Đào Đức Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi gây thương tích cho chị H phù hợp với lời khai của bị hại là chị Nguyễn Thị H, những người làm chứng và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là anh Nguyễn Đức M, chị Nguyễn Thị Thùy L và anh Trần Văn B. Sau Đinh thay đổi lời khai cho rằng thương tích ở gò má trái của chị H là do anh Trần Văn B dùng cốc đựng bia đập gây thương tích cho chị H.

Về dân sự: Trong giai đoạn điều tra Đào Đức Đ đã tự nguyện bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho bị hại số tiền 40.000.000 đồng. Chị Nguyễn Thị H đã nhận đủ và không có yêu cầu bồi thường khoản tiền nào khác đồng thời có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bản cáo trạng số 04/KSĐT ngày 24 tháng 12 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình truy tố Đào Đức Đ về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 (thuộc trường hợp quy định tại điểm a, i khoản 1 Điều 134) Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, trong phần tranh luận kiểm sát viên luận tội bị cáo vẫn giữ nguyên quan điểm theo quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Đào Đức Đ phạm tội “Cố ý gây thương tích” ; Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134 (thuộc trường hợp quy định tại điểm a, i khoản 1 Điều 134); điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật hình sự đề nghị xử phạt bị cáo Đào Đức Đ mức án từ 24 đến 30 tháng tù, thời gian tù tính từ ngày bắt thi hành án. Về trách nhiệm dân sự: Hai bên đã tự nguyện thỏa thuận bồi thường xong, không có yêu cầu gì khác nên không đặt ra để giải quyết. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa Đào Đức Đ khai và thừa nhận tối ngày 10/8/2018 tại quán bia ở số nhà 73, đường N, tổ 31, phường B, thành phố T do bực tức với thái độ của chị H, bị cáo đã dùng cốc thủy tinh đập vào đầu gây thương tích cho chị H như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình đã mô tả. Còn vết thương vùng má trái chị H do B gây ra, lý do bị cáo thay đổi lời khai ban đầu vì B nói bị cáo nhận hết để B còn đi nước ngoài, nhưng khi có kết quả giám định thương tích của chị H bị cáo thấy tội của bị cáo nặng mà B không lo được gì cho bị cáo nên bị cáo đã thay đổi lời khai. Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì với luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình.

Khi được trình bày lời nói sau cùng: Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Bình, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người liên quan không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời trình bày của bị hại, lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và người làm chứng về thời gian, địa điểm, dụng cụ gây án và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Lời khai người làm chứng là anh Nguyễn Đức M trình bày: “Khoảng 19 giờ ngày 10/8/2018 anh cùng em gái là H đến quán bia bà N để mua đồ ăn gặp B có hỏi về nợ, khi H nghe có vào hỏi thì giữa Đ và H cãi nhau, Đ cầm cốc bia trên tay phải lao về phía H, đứng đối diện cách 01 mét, giơ cốc lên cao đập 01 nhát vào vùng đầu, khu vực thái dương bên trái của H, tôi đẩy Đ ra để can ngăn, nhưng Đ tiếp tục lao vào dùng cốc đựng bia đập tiếp 01 phát trúng vào vùng mặt bên trái H. Lúc này B cầm cốc đựng bia lao về phía H, giơ cốc lên cao đập về phía đầu H, tôi liền đẩy B ra làm cốc bia trúng vào vai phải của H. Sau đó mọi người trong quán can ngăn, tôi thấy H bị chảy máu nhiều ở vùng đầu, mặt là do Đ dùng cốc đựng bia đánh” (BL số 95,96). Lời khai anh M phù hợp với lời khai chị Nguyễn Thị H, anh Trần Văn B, phù hợp lời khai ban đầu của bị cáo và chị Nguyễn Thị Thùy L là những người trực tiếp có mặt tại nơi xảy ra đánh nhau và phù hợp với cơ chế hình thành vết thương như trong kết luận giám định. Bị cáo trình bày lý do thay đổi lời khai ngoài lời dặn của vợ chồng anh B còn có tin nhắn vào điện thoại của chị L. Căn cứ lời khai, yêu cầu và đề nghị của người tham gia tố tụng, Hội đồng xét xử đã tạm ngừng phiên tòa 5 ngày. Khi mở lại phiên tòa ngoài lời khai, bị cáo không cung cấp được chứng cứ nào khác để chứng minh, vì vậy lời khai của bị cáo cho rằng anh B gây thương tích vùng má trái của chị H là không có cơ sở chấp nhận.

Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định: Vào khoảng 19 giờ ngày 10/8/2018, tại quán bia của bà Nguyễn Thị N (V) ở số nhà 73, đường N, tổ 31, phường B, thành phố T, chỉ vì cãi vã qua lại Đào Đức Đ đã có hành vi dùng cốc đựng bia bằng thủy tinh đập vào vùng đầu và vùng mặt gây thương tích cho chị H. Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 119/18/TgT ngày 10/9/2018 của Trung tâm pháp y - Sở y tế T kết luận tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của chị Nguyễn Thị H do thương tích là 11%. Đối với chiếc cốc đựng bia bằng thủy tinh bị cáo dùng làm công cụ gây thương tích cho chị H được xác định là hung khí nguy hiểm. Giữa bị cáo và chị H không có mâu thuẫn gì mà chỉ anh B và anh M lời qua tiếng lại về nợ nần, thấy chị H (em anh M) hỏi anh B, bị cáo chửi lại và lập tức dùng cốc thủy tinh đập vào đầu và mặt gây thương tích cho chị H. Điều đó cho thấy tính chất côn đồ, xem thường pháp luật và sức khỏe người khác của bị cáo. Bị cáo là người trên 18 tuổi, có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp và thương tích với tỷ lệ 11% cho chị H là do chính bị cáo gây ra. Do đó Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định bị cáo Đào Đức Đ phạm tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 (thuộc trường hợp quy định tại điểm a, i khoản 1 Điều 134) Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 với tình tiết định khung “dùng hung khí nguy hiểm” và “có tính chất côn đồ”. Vì vậy Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình và quan điểm luận tội của kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ nên được chấp nhận.

Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định:

1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người;

i) Có tính chất côn đồ;

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 06 năm:

a)…

đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này.

[3]. Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn thành phố Thái Bình, gây tâm lý bất an trong quần chúng nhân dân.

[4]. Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân bị cáo thấy: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào tại điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại cho người bị hại, thành khẩn khai báo, bị hại có đơn yêu cầu giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo được quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Về nhân thân bị cáo có 02 lần bị kết án về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, đã chấp hành xong bản án, đến khi phạm tội đã được xóa án tích, nhưng xác định bị cáo là người có nhân thân xấu.

Căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử cần áp dụng mức hình phạt tương xứng và cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian là cần thiết nhằm cải tạo giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[5]. Đối với hành vi của Trần Văn B: khi thấy Đinh thực hiện hành vi gây thương tích cho chị H, B cầm cốc bia đập vào vai phải chị H nhưng không gây thương tích gì, hành vi của Trần Văn B đánh chị H là tự phát, không có sự thống nhất, bàn bạc, giúp sức cho nhau nên không có căn cứ xác định đồng phạm trong vụ án này. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Bình đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Trần Văn B là phù hợp.

[6]. Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho chị Nguyễn Thị H số tiền 40.000.000 đồng. Chị H đã nhận đủ số tiền không có yêu cầu bồi thường khoản tiền nào khác nên chấp nhận.

[7]. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định. Bị cáo, bị hại và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134 (thuộc trường hợp quy định tại điểm a, i khoản 1 Điều 134); điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 38, khoản 1 Điều 50 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Căn cứ vào Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội; khoản 1 Mục I Danh mục mức án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên bố bị cáo Đào Đức Đ phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Xử phạt bị cáo Đào Đức Đ 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận sự thỏa thuận về bồi thường thiệt hại, bị hại chị Nguyễn Thị H đã nhận số tiền bồi thường là 40.000.000 đồng không yêu cầu bồi thường gì khác.

Về án phí: Bị cáo Đào Đức Đ phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo: Bị cáo Đào Đức Đ được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 14/01/2019. Bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

256
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 12/2019/HSST ngày 14/01/2019 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:12/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;