Bản án 12/2019/HNGĐ-ST ngày 23/04/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con 

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH HƯNG, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 12/2019/HNGĐ-ST NGÀY 23/04/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 23 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Hưng, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 21/2019/TLST-HNGĐ ngày 26/02/2019 về “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theoquyết định đưa vụ án ra xét xử  số 13/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 22/3/2019, giữacác đương sự:

 - Nguyên đơn:  Bà Huỳnh Thị Phương Tr, sinh năm 1992. Địa chỉ: Tổ 4, ấp 1, xã T, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

- Bị đơn: Ông Nguyễn Thanh D, sinh năm 1990. Địa chỉ: ấp 1, xã H, huyện V, tỉnh Long An.

 (Bà Tr có mặt, ông D vắng mặt lần thứ hai không lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 20 tháng 02 năm 2019 và những lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Huỳnh Thị Phương Tr trình bày:

Do quen biết nên bà và ông Nguyễn Thanh D cưới nhau vào năm 2016, có đăng ký kết hôn vào ngày 18/7/2016 tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện C, tỉnh Tiền Giang. Thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc, từ đầu năm 2017 ông D đi làm xa nhưng không quan tâm, lo lắng, chu cấp cho con và gia đình, cũng không về thăm gia đình nên giữa bà và ông D xảy ra tranh cãi nên đã ly thân từ năm 2018 đến nay. Mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, không thể dung hòa và hàn gắn được nữa nên xin ly hôn.

Về con chung: Giữa bà và ông Nguyễn Thanh D có một con chung tên Nguyễn Phúc An K (nam) sinh ngày 30/9/2016 hiện đang sống chung với bà và bà yêu cầu được nuôi con, không yêu cầu ông D cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản và nợ: Không có.

Từ khi thụ lý vụ án Tòa án đã thông báo các văn bản tố tụng theo quy định nhưng ông Nguyễn Thanh D không đến Tòa án để trình bày ý kiến, tại phiên tòa ông Dân vắng mặt lần thứ hai không lý do.

Ý kiến của Viện kiểm sát:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn: Tất cả đều tuân theo pháp luật tố tụng. Riêng bị đơn chưa chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng.

Về việc giải quyết vụ án: Nhận thấy cuộc sống vợ chồng giữa bà Tr và ông D không hạnh phúc, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, có cơ sở để chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Tr. Đối với con chung là cháu Nguyễn Phúc An K (nam) sinh ngày 30/9/2016, tính đến ngày xét xử sơ thẩm cháu K chưa đủ 36 tháng tuổi và đang sống chung với mẹ. Vì vậy để đảm bảo quyền lợi cho sự phát triển của con cần phải giao cháu K cho bà Tr tiếp tục nuôi dưỡng. Đề nghị áp dụng các Điều 28, 35, 39, 228 Bộ luật tố tụng dân sự; Áp dụng Điều 51, 56, 81 Luật Hôn nhân và gia đình đề nghị chấp nhận toàn bộ yêu cầu của bà Huỳnh Thị Phương Tr.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 [1] Về thẩm quyền: Bà Huỳnh Thị Phương Tr có đơn xin ly hôn với ông Nguyễn Thanh D và yêu cầu được nuôi con nên quan hệ pháp luật trong vụ án là ly hôn, tranh chấp nuôi con thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự. Ông Nguyễn Thanh D có nơi cư trú tại ấp1, xã H, huyện V, tỉnh Long An nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Hưng theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

 [2] Về tố tụng: Ông Nguyễn Thanh D vắng mặt lần 2 không lý do nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử theo quy định tại khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

 [3] Về hôn nhân: Giữa bà Huỳnh Thị Phương Tr và ông Nguyễn Thanh D xác lập quan hệ vợ chồng có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện C, tỉnh Tiền Giang nên đây là hôn nhân hợp pháp.

Bà Huỳnh Thị Phương Tr cho rằng từ năm 2017 vợ chồng thường xảy ra mâu thuẫn là do ông D đi làm xa nhưng không quan tâm, lo lắng, chu cấp cho con và gia đình, cũng không về thăm gia đình nên giữa bà và ông D xảy ra tranh cãi nên đã ly thân từ năm 2017 đến nay mà không hàn gắn được.

Từ khi thụ lý vụ án, Tòa án thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải hai lần để tạo điều kiện cho hai bên hàn gắn tình cảm với nhau nhưng ông D không tham gia phiên hòa giải và vắng mặt tại phiên tòa lần hai mà không có lý do nên thể hiện sự mặc kệ hậu quả xảy ra và không có thiện chí vợ chồng đoàn tụ, hiện nay bà Tr và ông D không còn sống chung. Bà Tr cương quyết xin ly hôn vì cho rằng tình cảm vợ chồng không còn. Từ những cơ sở trên, Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn giữa bà Tr và ông D là có thật và thật sự trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên có cơ sở chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Huỳnh Thị Phương Tr.

 [4] Về con chung: Giữa bà Huỳnh Thị Phương Tr và ông Nguyễn Thanh D có con chung tên Nguyễn Phúc An K (nam) sinh ngày 30/9/2016. Tính đến thời điểm xét xử cháu K chưa được 36 tháng tuổi và đang sống chung với bà Tr nên Hội đồng xét xử xét thấy cần giao cháu K cho bà Tr trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình. Bà Tr không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không đề cập đến.

 [5] Về tài sản, nợ: Bà Huỳnh Thị Phương Tr xác định không có tài sản chung và nợ, ông D vắng mặt không thể hiện ý kiến nên Hội đồng xét xử không đề cập.

 [6] Về án phí: Bà Huỳnh Thị Phương Tr phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Bởi các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Áp dụng các Điều 19, 51, 56, 58, 81,82, 83, 84 Luật Hôn nhân và  gia đình; Áp dụng khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số326/2016/UBTVQH14 quy  định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Huỳnh Thị Phương Tr về việc xin ly hôn với ông Nguyễn Thanh D.

Về hôn nhân: Bà Huỳnh Thị Phương Tr được ly hôn với ông Nguyễn Thanh D.

Về con chung: Giao con chung tên Nguyễn Phúc An K (nam) sinh ngày 30/9/2016 cho bà Huỳnh Thị Phương Tr tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc. Ông Nguyễn Thanh D không phải cấp dưỡng nuôi con.

Bên không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Vì lợi ích con chung theo yêu cầu của một hoặc hai bên Toà án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

Về án phí: Buộc bà Huỳnh Thị Phương Tr phải chịu 300.000 đồng tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm sung công quỹ Nhà nước. Chuyển 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Hưng theo biên lai số 0004315 ngày 26/02/2019 sang tiền án phí.

Báo cho nguyên đơn được biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt thì được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

212
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 12/2019/HNGĐ-ST ngày 23/04/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con 

Số hiệu:12/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Hưng - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;