Bản án 12/2018/HS-ST ngày 15/03/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIẾN XƯƠNG - TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 12/2018/HS-ST NGÀY 15/03/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 3 năm 2018 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 09/2018/ TLST- HS, ngày 08 tháng 02 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 12/2018/QĐXXST – HS ngày 27/02/2018 đối với:

Bị cáo: Bùi Xuân Th, sinh năm 1977 tại xã Vũ B, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.

Nơi cư trú: thôn M 1, xã B, huyện X, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: làm ruộng; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không, Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Bùi Đình C và con bà Bùi Thị T( đã chết).

Tiền án, tiền sự: không có

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 18/12/2017 đến ngày 21/12/2017 chuyển tạm giam, hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ công an huyện Kiến Xương, bị cáo được trích xuất, “ có mặt”.

- Những người làm chứng:

+ Ông Nguyễn Tiến Th, sinh năm 1970

Địa chỉ: khu C, thị trấn N, huyện X, tỉnh Thái Bình, “ vắng mặt”.

+ Ông Vũ Văn Ch, sinh năm 1964

Địa chỉ: khu Đ, thị trấn N, huyện X, tỉnh Thái Bình, “ vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ ngày 18/12/2017, tại khu vực trước cửa nhà ông Trương Thanh B, khu C, thị trấn N, huyện X công an huyện Kiến Xương bắt quả tang Bùi Xuân Th tàng trữ trên người 01 túi ni lông màu trắng, qua giám định là Methamphetamine có trọng lượng 1,4669 gam. Về nguồn gốc số Methamphetamine trên theo bị cáo khai mua của một người không quen biết tại TP Thái Bình vào ngày 17/12/2017 với giá 400.000 đ để sử dụng cho bản thân. Sáng ngày 18/12/2017 sau khi uống Methadone tại trung tâm y tế huyện Kiến Xương Th đến quán của ông B ngồi uống nước thì bị Công an huyện Kiến Xương kiểm tra, lập biên bản phạm tội quả tang.

Vật chứng của vụ án: Cơ quan điều tra công an huyện Kiến Xương thu giữ của Th 01 gói Methamphetamine có trọng lượng 1,4669 gam.

Bản kết luận giám định số 503 /KLGĐ - PC54 ngày 18/12/2017 của phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Thái B ghi: Mẫu gửi giám định thu của Bùi Xuân Th là ma túy, loại Methamphetamine có trọng lượng 1,4669 gam.

Tại bản Cáo trạng số:15/CT-VKSKX ngày 07/02/2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình truy tố Bùi Xuân Th về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 (sau đây viết tắt là BLHS 2015).

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kiến Xương vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, khoản 3 Điều 7, điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS 2015; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46, Điều 33 Bộ luật hình sự năm 1999 ( sau đây viết tắt là BLHS 1999); điểm b khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 của Quốc Hội ngày 20/6/2017 về việc thi hành Bộ luật hình sự số 100/2015/QH 13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14:

Tuyên bố bị cáo Bùi Xuân Th phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”; xử phạt bị cáo mức án từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu của Bùi Xuân Th 1,4378 gam Methamphetamine còn lại sau giám định để tiêu hủy.

Tại phiên tòa bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt để có cơ hội cải tạo, sửa chữa sớm trở thành người công dân tốt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra công an huyện Kiến Xương, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Kiến Xương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên toà, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như Viện kiểm sát đã truy tố trong bản cáo trạng.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh bằng các chứng cứ sau đây:

- Biên bản bắt người phạm tội quả tang do công an huyện Kiến Xương lập hồi 09 giờ 05 phút ngày 18/12/2017 (bút lục số 03- 04).

- Biên bản quản lý và niêm phong vật chứng do công an huyện Kiến Xương lập hồi 10 giờ 10 phút ngày 18/12/2017 ( bút lục số 06).

- Bản kết luận giám định số 503/KLGĐ - PC54 ngày 18/12/2017 của phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Thái Bình ( bút lục số 10).

- Lời khai của những người làm chứng là ông Nguyễn Tiến Th, sinh năm 1970 và ông Vũ Văn Ch, sinh năm 1964 đều ở thị trấn N, huyện X, tỉnh Thái Bình.

[4] Từ những căn cứ nêu trên có đủ cơ sở kết luận: khoảng 09 giờ ngày 18/12/2017 tại khu vực trước cửa nhà ông Trương Thanh B khu C, thị trấn N, huyện X Bùi Xuân Th đã có hành vi tàng trữ trái phép trên người 01 gói Methamphetamine có trọng lượng 1,4669 gam để sử dụng cho bản thân.

Hành vi trên của bị cáo đã phạm vào tội “ tàng trữ trái phép chất ma túy”, BLHS 2015 quy định hình phạt đối với tội này nhẹ hơn so với quy định của BLHS 1999. Theo quy định tại khoản 3 Điều 7 BLHS 2015 và điểm b khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 của Quốc Hội ngày 20/6/2017 về việc thi hành Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14 và về hiệu lực thi hành của Bộ luật Tố tụng hình sự số 101/2015/QH 13, Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự số 99/2015/QH13, Luật thi hành tạm giữ, tạm giam số 94/2015/QH13 thì mặc dù hành vi phạm tội của bị cáo xảy ra trước 0 giờ 00 phút ngày 01/01/2018 nhưng áp dụng BLHS năm 2015 để truy tố, xét xử. Do vậy áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS 2015 quy định về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” đối với bị cáo.

[5] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo thấy: hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý Nhà nước về chất ma túy, việc bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng không chỉ làm kinh tế gia đình bị cáo suy kiệt, là nguyên nhân dẫn đến các tệ nạn xã hội khác, mà còn làm cho tình hình an ninh, trật tự tại địa phương thêm phức tạp. Vì vậy cần xử phạt bị cáo mức án nghiêm khắc, tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[6] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào, và được hưởng hai tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo và bố bị cáo là người có công với cách mạng quy định tại điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 BLHS 1999. Do vậy cần giảm cho bị cáo một phần hình phạt là phù hợp với chính sách khoan hồng của pháp luật.

[7] Bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy với mục đích sử dụng cho bản thân nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[8] Vật chứng của vụ án: 1,4669 gam Methamphetamine thu giữ của bị cáo, sau khi giám định còn lại 1,4378 gam là vật cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

[9] Về án phí: Bị cáo Bùi Xuân Th phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: điểm c khoản 1 Điều 249, khoản 3 Điều 7 BLHS 2015; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46, Điều 33 BLHS 1999; điểm a khoản 2 Điều 106, Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm b khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 của Quốc Hội ngày 20/6/2017 về việc thi hành Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14 và về hiệu lực thi hành của Bộ luật Tố tụng hình sự số 101/2015/QH 13, Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự số 99/2015/QH13, Luật thi hành tạm giữ, tạm giam số 94/2015/QH13 điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thờng vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1.Tuyên bố: Bị cáo Bùi Xuân Th phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Bùi Xuân Th 01 ( một) năm 03( ba ) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 18/12 /2017.

2.Về xử lý vật chứng: Tịch thu của Bùi Xuân Th 1,4378 gam Methamphetamine còn lại sau giám định để tiêu hủy ( theo như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản kê biên ngày 23/02/2018).

3. Về án phí: bị cáo Bùi Xuân Th phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án 15/3/2018 .

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

259
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 12/2018/HS-ST ngày 15/03/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:12/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kiến Xương - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;