TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH L
BẢN ÁN 12/2018/HSST NGÀY 06/02/2018 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH ĐKPTGTĐB
Ngày 06 tháng 02 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Lai Châu xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 11/2017/HSST ngày 12 tháng 01 năm 2018 đối với bị cáo:
Lò Văn H – Sinh năm: 1983
Tại huyện Tân Uyên, tỉnh Lai Châu.
ĐKHKTT: Bản T 1, xã T, huyện T, tỉnh L.
Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hoá: Không biết chữ; Con ông: Lò Văn P- sinh năm 1949, Con bà: Lò Thị H- sinh năm 1950; Bị cáo có vợ là Lò Thị T- sinh năm 1984 và có 03 con lớn nhất sinh năm 2004, con nhỏ nhất sinh năm 2010; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 23/10/2017, tạm giam từ ngày 27/10/2017 đến nay có mặt tại phiên tòa.
- Đại diện hợp pháp của bị hại: Anh Lò Văn P- sinh năm 1981. Có mặt. Địa chỉ: Bản P 2, xã T, huyện T, tỉnh L.
- Những người có QLNVLQ:
1. Anh Vàng Văn N- sinh năm 1982. Có mặt. Địa chỉ: Bản H 2, xã T, huyện T, tỉnh L.
2. Lò Văn Y- sinh năm 1978. Có mặt.
Địa chỉ: Bản T 1, xã T, huyện T, tỉnh L.
3. Anh Lò Văn S – sinh năm 1990. Có mặt. Địa chỉ: Bản T 1, xã T, huyện T, tỉnh L.
- Người bào chữa cho bị cáo : Ông Nguyễn Công H- Trợ giúp viên Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh L. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau
a) Về hành vi phạm tội của bị cáo
Khoảng 17 giờ, ngày 23/10/2017, sau khi uống rượu tại nhà anh Lò Văn Ò, sinh năm 1979 trú tại bản T 2, xã T, huyện T xong, Lò Văn H, sinh năm 1983 và Lò Văn Y, sinh năm 1978 (đều trú tại bản T 1, xã T, huyện T) cùng nhau ra về theo đường liên xã thị trấn T đi xã T. Lò Văn H điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Win Honda CKD màu sơn đen biển kiểm soát 25T1-1217, Lò Văn Y điều khiển xe mô tô Wave ESPEKO màu sơn xanh đen biển kiểm soát 25U1- 0432. Khi đi đến khu vực đường liên xã thuộc địa phận bản T 2, xã T, Lò Văn H điều khiển xe mô tô đi sau cách xe mô tô của Lò Văn Y khoảng 10m và nhìn thấy phía trước, cách đó khoảng 40m có 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA màu sơn đỏ đen, biển kiểm soát 25F4 - 9977 do anh Vàng Văn N, sinh năm 1982 trú tại bản H 2, xã T điều khiển đi theo hướng ngược chiều chở 03 người ngồi sau là: Thào Thị S (vợ của N), sinh năm 1986, L Thị T, sinh năm 1982 và Lò Thị Th, sinh năm 1981 đều trú tại bản P 2, xã T.
Ngay lúc đó Lò Văn H điều khiển xe mô tô của mình tăng ga, lấn làn đường dành cho xe đi ngược chiều 1,12m, vượt lên phía trước cách xe mô tô của Lò Văn Y khoảng 3m thì xe mô tô của H va chạm vào phía bên phải xe mô tô của N đang điều khiển xuống dốc theo hướng ngược chiều. Sau khi va chạm, xe mô tô của H ngã đổ, rê trên mặt đường (theo hướng thị trấn T đi xã T) còn xe mô tô biển kiểm soát 25F4-9977 do N điều khiển lao sang phần đường bên trái theo hướng xe chạy. Trong quá trình va chạm với xe mô tô của Lò Văn H, chị Lò Thị Th ngồi ngoài cùng bị ngã văng ra khỏi xe mô tô, rơi xuống mặt đường ngay trước đầu xe mô tô biển kiểm soát 25U1-0432 do Lò Văn Y đang điều khiển chạy tới, do bị bất ngờ không kịp xử lý nên hai bánh xe mô tô của Lò Văn Y đã lăn qua phần ngực, bụng của chị T rồi đổ ngã ở bờ rào bên lề đường phải (theo hướng thị trấn T đi xã Tr) cách chỗ chị T nằm bất tỉnh 1,96m. Hậu quả chị Lò Thị T bị tử vong trên đường đi cấp cứu, Vàng Văn N, Lò Văn Y, Lò Văn H, Thào Thị S, Lò Thị T bị thương nhẹ, 03 xe mô tô bị hư hỏng nhẹ.
Ngay sau khi tai nạn xảy ra, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện T tiến hành Test nồng độ cồn trong hơi thở của Lò Văn H là 1,438mg/L (vượt quá 1,188mg/L).
Tại biên bản khám nghiệm hiện trường do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T lập vào hồi 09 giờ 15 phút ngày 24/10/2017 xác định: Địa điểm xảy ra vụ tai nạn giao thông tại đường liên xã (bản H, thị trấn trấn huyện T và bản T, xã Tr) thuộc địa phận bản T 2, xã Tr, huyện T, tỉnh L. Đây là đoạn đường thẳng, có độ dốc 7%, tầm nhìn không bị che khuất. Hiện trường đã bị xáo trộn do việc đưa nạn nhân đi cấp cứu. Tại đoạn đường này không có biển báo cấm người đi bộ, không có dải phân cách, không chia làn đường, mặt đường dải nhựa (cấp phối), rộng 3,65m, lề phải có chiều rộng 0,66m, có cỏ mọc và có một hàng rào thép gai bên trong, lề trái rộng 0,7m, bên cạnh lề trái có rãnh thoát nước, rộng 0,79m, sâu 0,45m. Qua xem xét dấu vết trên hiện trường, kết hợp với lời khai người làm chứng, kết quả thực nghiệm điều tra xác định điểm đâm va giữa xe mô tô biển kiểm soát 25T1 - 1217 do Lò Văn H điều khiển với xe mô tô biển kiểm soát 25F4 - 9977 do Vàng Văn N điều khiển cách lề phải theo hướng xe mô tô Lò Văn H chạy là 2,95m (Lò Văn H chạy lấn đường là 1,12m). Ngoài ra trên hiện trường còn ghi nhận nhiều vết cà trên mặt đường do xe mô tô khi bị đổ trượt tạo nên và không phát hiện dấu vết phanh.
Tại biên bản khám nghiệm phương tiện liên quan đến vụ tai nạn giao thông lập ngày 24/10/2017 của Cơ quan điều tra xác định:
Xe mô tô biển kiểm soát 25U1 - 0432 của bị can Lò Văn Y: Ốp mặt nạ, ốp đèn pha vỡ nát, tróc sơn kích thước 0,09m x 0,19m; cụm mặt nạ, cách yếm phải và chắn bùn phía trước vỡ nát, bong chốt; càng bên phải phía trước trùn hẳn về sau, bánh trước đẩy sát về lốc máy; bộ công tắc điều khiển bên trái bị bung chốt; để chân phía sau bên phải bị gãy rời; chắn bùn sau bên phải và biển số bị gãy rời khỏi vị trí; Hệ thống lái, phanh, số không còn tác dụng; đèn, còi, gương không còn tác dụng.
Xe mô tô biển kiểm soát 25B1-1217 của bị can Lò Văn H: Gương bên phải vỡ nát, rời khỏi xe; đèn xi nhan bên phải phía trước gãy rời; hộp công tơ mét bên trái có một vết trầy xước kích thước 0,03m x 0,01m; gương chiếu hậu bên trái bị gãy vỡ; giá để chân phía trước bên trái bị mài mòn cong về sau có dính bột đá màu trắng; đèn, còi, gương không còn tác dụng.
Xe mô tô biển kiểm soát 25F4-9977 của Vàng Văn N: Ốp đèn, đèn pha bên phải có nhiều vết xước, bám nhiều bùn đất kích thước 0,23cm x 0,14cm; đầu cánh yếm bên phải bị đẩy sát cụm xi nhan; đầu chắn bùn bên phải bị vỡ và dính nhiều bùn đất; chắn bùn phía trước bị gãy; giá để chân phía trước bên phải bị cong vênh theo chiều từ dưới lên; ốp bảo vệ ống xả bị méo từ ngoài vào trong kích thước 34 x 08cm.
Tiến hành khám nghiệm tử thi của chị Lò Thị Th xác định: Vùng ngực: vùng mạng sườn bên trái khoang liên sườn 7, 8, 9 có một đám xây xước dạng chợt da kích thước 11 x 7cm, ở đường nách giữa khoang liên sườn 10, 11 có một đám tổn thương dạng chợt da kích thước 11 x 8cm, sờ nắn có dấu hiệu gãy sập xương sườn bên trái. Chi dưới bên phải: vùng đùi, da, xương không tổn thương, cẳng chân bên phải gãy kín hai xương 1/3 dưới. Vùng lưng, mông: góc dưới xương bánh chè bên trái có 01 vết tổn thương dạng chợt da kích thước 2 x 0,5cm, ở đốt sống ngực 5, 6 có 01 vết tổn thương dạng chợt da kích thước 02 x 01cm.
Mở vùng ngực: Tổ chức cân cơ dưới da không tổn thương, khoang liên sườn từ 1 đến 9 bầm tím tụ máu, gãy đầu trong xương đòn bên phải, gãy cung trước xương sườn số 1 bên phải, gãy cung trước xương sườn số 1 đến số 9 bên trái, gãy cung giữa xương sườn số 6, 7, 8, 9 bên trái, thùy trên phải bên phải phù nề xung huyết, phổi bên trái phù nề xung huyết toàn bộ, ở thùy đuôi của phổi bên trái bị tổn thương dạng bầm dập, trong khoang lồng ngực có khoảng 400ml dịch màu đỏ máu không đông.
Mở vùng bụng: Tổ chức cân cơ dưới da không bị tổn thương, dập vỡ thùy phải, trái của gan, lách dập vỡ, thận bên phải không bị tổn thương, thận trái dập vỡ, dạ dày, quai ruột không bị tổn thương; mở tử cung lòng tử cung có dụng cụ tránh thai, trong ổ bụng có khoảng 250ml dịch màu đỏ máu không đông.
b) Về các vấn đề khác của vụ án
Tại Bản kết luận pháp y về tử thi số 93 ngày 27/10/2017 của Trung tâm pháp y tỉnh L xác định nguyên nhân chết của chị Lò Thị Th là “Chấn thương ngực kín (thủng dập phổi, gãy xương sườn), chấn thương bụng kín (vỡ gan, lách, thận) làm mất máu cấp dẫn đến tử vong”.
Trong quá trình điều tra, bị cáo Lò Văn H đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và tác động gia đình bồi thường cho đại diện hợp pháp của gia đình bị hại Lò Thị T số tiền 98.000.000 đồng, đại diện hợp pháp của bị hại có đơn đề nghị các cơ quan chức năng xem xét miễn, giảm trách nhiệm hình sự cho bị cáo Lò Văn H
Trong quá trình điều tra bị cáo Lò Văn H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
c) Về trích dẫn cáo trạng của Viện kiểm sát
Tại bản cáo trạng số: 03/KSĐT-TA, ngày 11/01/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh L truy tố bị cáo Lò Văn H về tội: “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 202 Bộ luật hình sự năm 1999.
Tại phiên Tòa đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm như đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bị cáo phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 202 Bộ luật hình sự 1999; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 54; Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Lò Văn H từ 2 năm đến 2 năm 6 tháng tù cho hưởng án treo.
Về trách nhiệm dân sự: Không đề cập giải quyết.
Về vật chứng của vụ án. Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự năm 2015, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
Trả lại cho bị cáo Lò Văn H 01 xe mô tô nhãn hiệu Win Honda CKD màu sơn đen, biển kiểm soát 25T1- 1217; 01 giấy phép lái xe mang tên Lò Văn H; 01 đang ký xe mô tô nhãn hiệu Win Honda CKD màu sơn đen, biển kiểm soát 25T1- 1217 mang tên Lò Văn P.
Trả lại cho anh Vàng Văn N: 01 giấy phép lái xe; 01 đăng ký xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, biển kiểm soát 25F4- 9977 mang tên Lường Văn B; 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA màu sơn đỏ- đen, biển kiểm soát 25F4- 9977.
Trả lại cho Lò Văn S 01 giấy đăng ký xe mô tô nhãn hiệu Wave DETECH màu sơn đen, biển kiểm soát 25U1- 0432 mang tên Hà Văn M; 01 xe mô tô nhãn hiệu Wave DETECH màu sơn xanh, biển kiểm soát 25U1- 0432 , biểm kiểm soát đã bị gãy rời.
Tại phiên tòa hôm nay người bào chữa cho bị cáo đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và xin miễn án phí cho bị cáo.
Bị cáo nói lời sau cùng: Xin hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa Kiểm sát viên, những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát.
Căn cứ vào các chứng cứ tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, người bào chữa cho bị cáo, những người có QLNVLQ, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra và nội dung bản cáo trạng đã mô tả phù hợp với tài liệu, chứng cứ khác thu thập được có trong hồ sơ vụ án như:
Biên bản khám nghiệm hiện trường và sơ đồ hiện trường vụ tai nạn giao thông do cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T tỉnh L lập hồi 08 giờ 10 phút ngày 24 tháng 10 năm 2017 tại nơi xảy ra tai nạn thuộc đường liên xã bản T II, x Tr, huyện T, tỉnh L.
Các biên bản khám nghiệm phương tiện liên quan đến tai nạn giao thông do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T lập hồi 14 giờ, 14 giờ 30 và 15 giờ 05 phút ngày 24/10/2017
Biên bản khám nghiệm tử thi chị Lò Thị T do cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T lập hồi 21 giờ 15 phút ngày 23/10/2017 tại nhà tang lễ trung tâm y tế huyện T.
Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 93/BKL- TTPY ngày 27/10/2017 của trung tâm pháp y, sở y tế L.
Các biên bản tạm giữ phương tiện, tang vật liên quan đến vụ tai nạn giao thông vào hồi 18 giờ 40 phút; 18 giờ 30 phút; 18 giờ 20 phút ngày 23/10/2017.
Các biên bản ghi lời khai của những người làm chứng: Chị Lò Thị T- sinh năm 1982 trú tại bản P 2, xã Tr, huyện T, tỉnh L; chị Thào Thị S- sinh năm 1986, trú tại bản H 2, xã Tr, huyện T, tỉnh L.
Do đó Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 17 giờ, ngày 23/10/2017, Lò Văn H có giấy phép lái xe theo quy định, điều khiển xe mô tô trong tình trạng sử dụng rượu, bia vượt quá mức quy định đi từ bản T 2, xã Tr về nhà ở bản T 1, xã Tr. Khi đến đường liên xã thuộc địa phận bản T 2, xã Tr, huyện T, tỉnh L, do vượt xe không có tín hiệu báo trước, vượt xe lấn làn đường dành cho xe đi ngược chiều 1,12m nên đã đâm vào phía bên phải xe mô tô biển kiểm soát 25F4-9977 do anh Vàng Văn N điều khiển chở 3 người ngồi sau là chị Thào Thị S, Lò Thị T, Lò Thị Th, làm chị Lò Thị Th ngã văng xuống đường. Do bị bất ngờ nên xe mô tô 25U1-0432 của Lò Văn Y điều khiển chạy phía sau cùng chiều với Lò Văn H đã chèn qua phần ngực, bụng của chị Th gây chấn thương ngực kín (thủng, dập phổi, gãy xương sườn), chấn thương bụng kín (vỡ gan, lách, thận) làm mất máu cấp dẫn đến tử vong.
Hành vi của bị cáo Lò Văn H đã phạm vào tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 202 Bộ luật hình sự năm 1999.
Xét hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, mặc dù đã được học và thi cấp bằng lái xe theo quy định nhưng khi tham gia giao thông bị cáo đã sử dụng rượu, bia có nồng độ cồn vượt quá mức quy định, vượt xe lấn sang đường hậu quả làm chị Lò Thị Th ngã văng xuống đường. Do bị bất ngờ nên xe mô tô 25U1- 0432 của Lò Văn Y điều khiển chạy phía sau cùng chiều với Lò Văn H đã chèn qua phần ngực, bụng của chị Th gây chấn thương ngực kín (thủng, dập phổi, gãy xương sườn) chấn thương bụng kín (vỡ gan, lách, thận) làm mất máu cấp dẫn đến tử vong.
Xét về nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng của bị cáo: Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng và chưa có tiền án tiền sự.
Xét các tình tiết giảm nhẹ của bị cáo: Khi gây ra tai nạn, bị cáo đã chủ động tác động đến gia đình bồi thường cho gia đình người bị hại. Tại phiên Tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải, người đại diện hợp pháp cho bị hại có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Do vậy cần áp dụng điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015, bị cáo có 02 tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự nên cần áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự để quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật cho bị cáo và thể hiện sự khoan hồng của Pháp luật. Không nhất thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội cũng đủ tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo.
Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng nào.
Căn cứ vào hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo. Hội đồng xét xử thấy cần nên cho bị cáo một mức án như đại diện Viện kiểm sát đề nghị tại phiên tòa là phù hợp. Bị cáo có nhân thân tốt và có nơi cư trú rõ ràng, có khả năng tự cải tạo. Vì vậy cần cho bị cáo được cải tạo bên ngoài xã hội cũng đủ điều kiện giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội, đồng thời cũng tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo.
Hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 202 BLHS năm 1999 quy định: “Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề, hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm”..
Bị cáo Lò Văn H không có nghề nghiệp nên không cần áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về trách nhiệm dân sự: Sau khi tai nạn xảy ra bị cáo đã tác động đến gia đình bồi thường cho gia đình bị hại số tiền mai táng và tiền tổn thất tinh thần là 98.000.000đ. Anh Lò Văn P đại diện hợp pháp của người bị hại đã nhận đủ số tiền trên và tại phiên tòa không yêu cầu bồi thường gì thêm và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo .
Về tang vật của vụ án:
Trả lại cho bị cáo Lò Văn H 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Win Honda CKD màu sơn đen, biển kiểm soát 25T1- 1217; 01 giấy phép lái xe mang tên Lò Văn H; 01 đăng ký xe mô tô nhãn hiệu Win Honda CKD màu sơn đen, biển kiểm soát 25T1- 1217 mang tên Lò Văn P.
Trả lại cho Vàng Văn N 01 giấy phép lái xe mang tên Vàng Văn N; 01 giấy đăng ký xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA màu sơn đỏ- đen, biển kiểm soát 25F4- 9977 mang tên Lường Văn B; 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA màu sơn đỏ- đen, biển kiểm soát 25F4- 9977.
Trả lại cho Lò Văn S 01 giấy đăng ký xe mô tô nhãn hiệu Wave DETECH màu sơn xanh, biển kiểm soát 25U1- 0432 mang tên Hà Văn M; 01 xe mô tô biển kiểm soát 25U1- 0432 nhãn hiệu Wave DETECH màu sơn xanh.
Trong vụ án này, anh Vàng Văn N, chị Lò Văn Y, chị Thào Thị S và chị Lò Thị T có đơn xin từ chối giám định thương tích và tài sản, không đề nghị gì nên không đề cập xử lý đối với Lò Văn H về những hành vi này. Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
Đối với Lò Văn Y là người tham gia giao thông đi đúng phần đường quy định nhưng do sự kiện bất ngờ vì Lò Văn H bất ngờ gây tai nạn làm cho Lò Văn Y không xử lý kịp tình huống nên hai bánh xe mô tô của Y chèn qua phần ngực, bụng, làm chị Th tử vong trên đường đi cấp cứu. Quá trình điều tra xác định khi tham gia giao thông, Lò Văn Y không có giấy phép lái xe, sử dụng chất kích thích (uống rượu, nồng độ cồn trong hơi thở là 0,472mg/L, vượt quá mức quy định). Do đó, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện T đã ra quyết định xử phạt hành chính là phù hợp.
Đối với Vàng Văn N, khi tham gia giao thông chở quá số người quy định, số người ngồi trên xe không đội mũ bảo hiểm, sử dụng chất kích thích (uống rượu, nồng độ cồn trong hơi thở là 0,65mg/L, vượt quá mức quy định). Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện T đã ra quyết định xử phạt hành chính là phù hợp.
Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Lò Văn H phạm tội: “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”.
a) Về hình phạt:
Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 202 Bộ luật hình sự 1999; Điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 54; Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015.
Xử phạt bị cáo Lò Văn H 24 (hai mươi bốn) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 48 (bốn mươi tám) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo cho UBND xã Tr, huyện T, tỉnh L quản lý giám sát và giáo dục.
- Áp dụng khoản 4 Điều 328 Bộ luật hình sự. Trả tự do cho bị cáo tại phiên tòa, nếu họ không bị tạm giam về một tội phạm khác.
Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú trong phạm vi huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh thì Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm thông báo cho cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện để làm thủ tục chuyển giao hồ sơ thi hành án treo cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người được hưởng án treo đến cư trú để giám sát, giáo dục.
Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú ngoài phạm vi huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh thì cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện có trách nhiệm làm thủ tục chuyển hồ sơ thi hành án treo cho cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nơi người được hưởng án treo đến cư trú để tổ chức việc thi hành án theo quy định tại Điều 62 của Luật Thi hành án Hình sự và thông báo bằng văn bản cho Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp.
b) Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 48 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 tuyên trả:
Trả lại cho bị cáo Lò Văn H 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Win Honda CKD màu sơn đen, biển kiểm soát 25T1- 1217; 01 giấy phép lái xe mang tên Lò Văn H; 01 đăng ký xe mô tô nhãn hiệu Win Honda CKD màu sơn đen, biển kiểm soát 25T1- 1217 mang tên Lò Văn P.
Trả lại cho Vàng Văn N 01 giấy phép lái xe mang tên Vàng Văn N; 01 giấy đăng ký xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA màu sơn đỏ- đen, biển kiểm soá 25F4- 9977 mang tên Lường Văn B; 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA màu sơn đỏ- đen, biển kiểm soát 25F4- 9977
Trả lại cho Lò Văn S 01 giấy đăng ký xe mô tô nhãn hiệu Wave DETECH màu sơn xanh, biển kiểm soát 25U1- 0432 mang tên Hà Văn M; 01 xe mô tô biển kiểm soát 25U1- 0432 nhãn hiệu Wave DETECH màu sơn xanh
c) Về án phí:
Áp dụng Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội 14 quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Lò Văn H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
d) Quyền kháng cáo:
Án xử công khai có mặt bị cáo, đại diện hợp pháp của bị hại, những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Báo cho bị cáo, đại diện hợp pháp của bị hại, những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./.
Bản án 12/2018/HSST ngày 06/02/2018 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB
Số hiệu: | 12/2018/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tân Thạnh - Long An |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 06/02/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về