Bản án 12/2018/HSST ngày 05/10/2018 về tội mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIÊN YÊN - TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 12/2018/HSST NGÀY 05/10/2018 VỀ TỘI MUA BÁN, TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 09 tháng 10 năm 2018 tại Hội trường xét xử, Tòa án nhân dân huyện Tiên Yên - tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 11/2018/HSST ngày 17/9/2018 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Lê Văn C - tên gọi khác: Không. Sinh ngày 12/9/1987, tại: huyện TL, Hải Phòng.

Nơi cư trú: thôn T, xã V, huyện TL, thành phố Hải Phòng. Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: lớp 9/12;

Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam. Con ông Lê Văn Ch sinh năm 1959 và bà Phạm Thị M sinh năm 1956;

Có vợ là Nguyễn Thị T – sinh năm 1986 và 02 con, lớn sinh năm 2006, nhỏ sinh năm 2016.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 18/11/2011 bị Tòa án nhân dân huyện Hải Hà, tỉnh Quảng Ninh xử phạt 03 năm tù, về tội “Trộm cắp tài sản”.

Bị bắt khẩn cấp ngày 07/6/2018, hiện tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Tiên Yên - Có mặt.

2. Họ và tên: Hà Văn M1, tên gọi khác: Không. Sinh ngày 26/6/1979, tại: huyện T, Quảng Ninh.

Nơi cư trú: thôn TB2, xã TL, huyện T, tỉnh Quảng Ninh. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: lớp /12;

Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam.

Con ông Hà Văn V (đã chết), con bà Lê Thị G - sinh năm 1935; Vợ, con: Chưa có.

Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân:

+ Ngày 11/6/2002 bị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh xử phạt 07 năm tù, về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

+ Ngày 05/8/2008 bị Tòa án nhân dân huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh xử phạt 12 tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản”.

+ Ngày 14/5/2013 bị Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh xử phạt 03 năm tù, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Bị bắt quả tang ngày 07/6/2018 hiện tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Tiên Yên, có mặt.

* Người làm chứng: Có mặt anh Phạm Văn A và anh Lại Văn M2; Vắng mặt anh Nguyễn Đức A1; anh Vũ Thanh L; anh Hà Trung Đ; anh Hoàng Văn S1; anh Hà Văn S2; anh Phạm Minh T1; anh Đỗ Thế C1; anh Trần Trung L1; anh Lương Văn Đ2 và Đại diện hợp pháp của anh Đ2 - anh Lương Văn Đ3.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ ngày 06/6/2018, Lê Văn C đến bến xe khách Lạc Long, thành phố Hải Phòng đón xe đi huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh chơi. Tại đây, C thấy một người thanh niên không quen biết có biểu hiện sử dụng ma túy nên đã hỏi mua của người đó 01 túi ma túy với giá 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) và được người đó cho một chiếc nõ bằng thủy tinh để sử dụng. Sau đó, C đón xe ôtô khách đi huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh và đến xưởng sản xuất đá lạnh của anh Nguyễn Đức A1 (sinh năm 1987) ở thôn XN, xã TL, huyện T chơi và ở lại đó. Đến khoảng 16 giờ ngày 07/6/2018, C đi chơi về thì gặp Lương Văn Đ2 (sinh ngày 07/5/2001, trú tại thôn ĐC, xã TL, huyện T) đang làm thuê tại xưởng đá của anh Đức A1. Do biết Đ2 sử dụng ma túy, Cđã bỏ một phần trong số ma túy mua được ở thành phố Hải Phòng ra và cùng với Đ2 cho vào dụng cụ tự chế để sử dụng. Khoảng 17 giờ cùng ngày, Hà Văn M1 đi xe môtô đến xưởng sản xuất đá lạnh lấy đá và cũng để gặp C mua ma túy. Tại đây, M1 gặp và mua của C số ma túy còn lại được đựng trong 01 túi nilon với giá 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng). Khi mua được ma túy, M1 ra lấy 01 túi đá lạnh cho vào chiếc túi nilon (loại 5kg) và cất giấu túi ma túy vào trong đó, sau đó M1 đi xe môtô đến khu vực phố ĐT1, thị trấn Tiên Yên, huyện Tiên Yên thì bị Công an huyện Tiên Yên phát hiện bắt quả tang, thu giữ: 01 túi nilon kích thước khoảng (2x1,3)cm bên trong chứa chất tinh thể màu trắng; 01 điện thoại di động Nokia 105, gắn sim số thuê bao 0169.8988.330; 01 túi nilon màu xanh (loại 5kg) và 01 xe môtô nhãn hiệu Honda Future (không biển kiểm soát).

Sau khi bán ma túy cho Hà Văn M1 được 200.000 đồng, C đã đưa cho anh Lại Văn M2 (sinh năm 1982, trú tại: phố LT, thị trấn TY, huyện Tiên Yên) nhờ mua hộ số đề nhưng chưa kịp mua, anh M2 đã nộp lại số tiền trên cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tiên Yên.

Căn cứ tài liệu điều tra, cùng ngày Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Huyện Tiên Yên tiến hành giữ người trong trường hợp khẩn cấp và khám xét nơi ở của Lê Văn C tại thôn XN, xã TL, huyện T, phát hiện thu giữ: 01 túi đeo màu đen; 01 chuột máy tính không dây, trong vị trí nắp pin có 07 túi nilon màu trắng, có kích thước (2x1)cm; 01 chứng minh thư nhân dân mang tên Lê Văn C; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy (gồm: 01 vỏ chai nhựa, nắp chai đục lỗ gắn 01 ống thủy tinh uốn cong, một đầu có bầu tròn có lỗ và gắn với 01 ống hút nhựa; 01 vỏ chai thủy tinh, nắp chai đục 02 lỗ) (Bút lục số 41 - 44, 50 - 65, 70 - 78).

Tại bản kết giám định số 469/GĐMT ngày 08/6/2018, của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh, kết luận: Chất tinh thể màu trắng ghi thu của Hà Văn M1 gửi giám định là ma túy; Loại: Methamphetamine; Khối lượng: 0,111 gam (không phẩy một một một gam) (Bút lục số 131).

Quá trình điều tra, Lê Văn C và Hà Văn M1 khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên. Ngoài ra, M1 còn khai: Ngày 07/6/2018, M1 chơi ở quán điện tử của Nguyễn Đức A1 ở phố ĐT1, thị trấn TY, huyện T. Do hết đá, M1 sang xưởng sản xuất đá lạnh cũng của Nguyễn Đức A1 để lấy đá thì Phạm Minh T1 (sinh năm 1966, trú tại: phố ĐT2, thị trấn TY, huyện T) đưa cho M1 200.000 đồng nhờ sang xưởng làm đá gặp C mua ma túy, nhưng T1 không thừa nhận hành vi này. Ngoài ra, không còn tài liệu, chứng cứ nào khác chứng minh việc T1 đã đưa tiền cho M1 mua ma túy (Bút lục số 110 - 101).

Quá trình điều tra, người làm chứng Lương Văn Đ2 (BL 116-121) khai chứng kiến việc C bán cho M1 01 túi ma túy đá giá 200.000đ tại xưởng sản xuất đá lạnh; người làm chứng Trần Trung L1 tại biên bản ghi lời khai (BL 104-107) và Biên bản bắt người phạm tội quả tang (BL 41, 42) khai chứng kiến khi Công an kiểm tra, bắt giữ Hà Văn M1 đã thu được 01 túi nilon nhỏ bên trong đựng tinh thể màu trắng nghi là ma túy đá, gói trong giấy vệ sinh màu trắng.

Tại Cáo trạng số 12/CT–VKSTY ngày 14 tháng 9 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh truy tố bị cáo Lê Văn C về tội “Mua bán trái phép chất ma túy ” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự; truy tố bị cáo Hà Văn M1 về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy ” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa các bị cáo Lê Văn C và Hà Văn M1 khai nhận tương tự quá trình điều tra, bị cáo C thừa nhận đã bán cho bị cáo M1 01 túi ma túy đá giá 200.000đ; bị cáo M1 thừa nhận đã mua 01 túi ma túy của C, trên đường mang về thì bị bắt, thu giữ vật chứng, các bị cáo thừa nhận bị truy tố đúng người, đúng tội.

Tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh luận tội đối với các bị cáo, giữ nguyên quan điểm truy tố như cáo trạng đã nêu, đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 điều 51 BLHS, xử phạt bị cáo Lê Văn C từ 27 đến 30 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy; đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS, xử phạt bị cáo Hà Văn M1 từ 12 đến 15 tháng tù và đề nghị xử lý vật chứng theo luật định.

Các bị cáo nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tiên Yên; Điều tra viên; Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tiên Yên; Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng đều đã thực hiện hợp pháp.

[2] Xét lời khai của bị cáo Lê Văn C trong quá trình điều tra (BL 50-65); lời khai của bị cáo Hà Văn M1 (BL 70-78) và lời khai của các bị cáo tại phiên tòa cơ bản phù hợp với nhau, phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang (BL 41,

42); Biên bản khám xét (BL 43, 44); Kết luận giám định số 469/GĐMT ngày 08/6/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh; (BL 131); Phù hợp với lời khai của những người làm chứng là Đỗ Thế C1 (BL 89, 90); Phạm Văn A (BL 91, 92); Lại Văn M2 (BL 93, 97); Trần Trung L1 (BL 104-107; Lương Văn Đ2 (BL 116-121) và phù hợp các tài liệu khác có trong hồ sơ, thấy có đủ cơ sở kết luận:

Hồi 17 giờ 15 phút ngày 07/6/2018, tại xưởng sản xuất đá lạnh thuộc thôn XN, xã TL, huyện T, tỉnh Quảng Ninh, Lê Văn C có hành vi bán trái phép 0,111 gam ma túy Methamphetamine cho Hà Văn M1 với giá 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng), sau đó Hà Văn M1 mang số ma túy trên đi về thì bị Công an huyện Tiên Yên phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

[3] Hành vi của bị cáo Lê Văn C đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự có khung hình phạt tù từ 02 năm đến 07 năm; hành vi của Hà Văn M1 đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự có khung hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Do đó Cáo trạng số 12/CT-VKSTY ngày 14-9-2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh truy tố đối với các bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội. Methamphetamine là chất ma tuý gây ảo giác, kích thích thần kinh rất mạnh, rất độc hại đối với sức khỏe về thể chất, tâm thần và dễ gây tình trạng lệ thuộc đối với người sử dụng; Tệ nạn ma tuý gây tốn kém về kinh tế, làm suy thoái giống nòi, là một trong những nguyên nhân làm phát sinh một số loại tội phạm và tệ nạn xãhội. Các bị cáo nhận thức được  tác hại của ma túy, biết Nhà nước nghiêm cấm nhưng vẫn mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy. Hành vi của các bị cáo đã trực tiếp xâm hại đến chính sách quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, góp phần làm trầm trọng thêm tệ nạn ma túy tại địa phương. Do đó cần xử lý nghiêm đối với các bị cáo và phòng ngừa chung.

[4] Xét các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội độc lập với nhau, nên mỗi bị cáo phải chịu hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm mà bị cáo đã thực hiện.

[5] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo, thấy rằng:

Về tình tiết giảm nhẹ: Các bị cáo Lê Văn C và Hà Văn M1 không có tiền án, tiền sự, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa có thái độ khai báo tương đối thành khẩn và ăn năn hối cải, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ “thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết tăng nặng: Không có. Xét bị cáo Lê Văn C có nhân thân xấu, năm 2011 đã bị kết án về tội “Trộm cắp tài sản” và thuộc trường hợp được đương nhiên xóa án tích; bị cáo Hà Văn M1 cũng có nhân thân xấu, đó là năm 2002 bị kết án về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; năm 2008 bị kết án về tội “Trộm cắp tài sản” và năm 2013 bị kết án về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và cũng thuộc trường hợp được đương nhiên xóa án tích. Nhưng các bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng, rèn luyện, giáo dục bản thân mà vẫn mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng bởi vậy cần xử lý nghiêm để giáo dục và phòng ngừa.

[6] Về hình phạt bổ sung, xét thấy các bị cáo không có nghề nghiệp, là các đối tượng nghiện ma túy, việc mua bán, tàng trữ ma túy chỉ để phục vụ nhu cầu sử dụng ma túy của bản thân nên không áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 249 và khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự.

[7] Về xử lý vật chứng:

+ Số ma túy hoàn lại sau giám định, đựng trong phong bì niêm phong số 469/GĐMT là vật cấm lưu hành, cần tịch thu tiêu hủy;

+ 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 gắn sim số 01698.988.330 thu khi bắt giữ Hà Văn M1, không chứng minh được đã sử dụng vào việc phạm tội, nên trả lại cho bị cáo Minh;

+ 01 Chứng minh thư nhân dân mang tên Lê Văn C là giấy tờ tùy thân nên trả lại cho bị cáo C;

+ Số tiền 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) C bán ma túy mà có, nên tịch thu, nộp ngân sách nhà nước;

+ 01 túi nilon màu xanh (loại 5kg) thu giữ được khi bắt Hà Văn M1 và 01 túi đeo màu đen đã qua sử dụng thu giữ của Lê Văn C là những vật đã sử dụng vào việc phạm tội nên tịch thu tiêu hủy;

+ 01 chuột máy tính không dây; 07 túi nilon màu trắng có kích thước (2x1)cm thu của Lê Văn C, xét thấy không có giá trị nên tịch thu tiêu hủy;

+ 01 vỏ chai nhựa bên trong đựng nước nắp chai đục lỗ gắn 01 ống thủy tinh một đầu có bầu tròn có lỗ và gắn với 01 ống hút bằng nhựa và 01 vỏ chai bằng thủy tinh bên trong đựng nước, nắp chai có đục lỗ là dụng cụ sử dụng ma túy, nên tịch thu tiêu hủy;

+ 01 (một) xe môtô nhãn hiệu Honda Future (không biển kiểm soát) thuộc sở hữu của anh Phạm Văn A, anh A không biết M1 sử dụng vào việc mua ma túy, cơ quan Điều tra đã trả lại cho anh A theo quy định, nên không đề cập nữa.

[8] Đối với đối tượng bán ma túy cho C, do không xác định được lai lịch, địa chỉ nên không có cơ sở làm rõ. Đối với Lương Văn Đ2 có hành vi sử dụng ma túy cùng Lê Văn C, Công an huyện Tiên Yên đã xử lý vi phạm hành chính, nên không đề cập;

Quá trình điều tra, Minh khai anh Phạm Minh T1 đưa cho M1 200.000đ nhờ M1 gặp C mua ma túy, nhưng T1 không thừa nhận hành vi này, đồng thời không có tài liệu, chứng cứ nào khác chứng minh việc T1 đưa tiền cho M1 mua ma túy, nên không có cơ sở xử lý.

[9] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Lê Văn C phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy"; Bị cáo Hà Văn M1 phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy";

- Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Lê Văn C 27 (Hai mươi bảy) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 07/6/2018.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự

Xử phạt bị cáo Hà Văn M1 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 07/6/2018.

- Áp dụng điểm b, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

+ Tịch thu tiêu hủy 0,05g Methamphetamine hoàn lại sau giám định, đựng trong phong bì niêm phong số 469/GĐMT;

+ Trả lại cho Hà Văn M1 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 gắn sim số 01698.988.330 đã qua sử dụng;

+ Trả lại cho Lê Văn C 01 (một) chứng minh thư nhân dân số 031087002389 mang tên Lê Văn C;

+ Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước số tiền 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng);

+ Tịch thu tiêu hủy 01 (một) túi nilon màu xanh (loại 5kg); 01 (một) túi đeo màu đen đã qua sử dụng; 01 (một) chuột máy tính không dây; 07 (bảy) túi nilon màu trắng có kích thước (2x1)cm;

+ Tịch thu tiêu hủy 01 (một) vỏ chai nhựa bên trong đựng nước nắp chai đục lỗ gắn 01 (một) ống thủy tinh một đầu có bầu tròn có lỗ và gắn với 01 (một) ống hút bằng nhựa và 01 (một) vỏ chai bằng thủy tinh bên trong đựng nước, nắp chai có đục lỗ;

Tình trạng số vật chứng nêu trên thể hiện tại Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 13 ngày 17/9/2018 giữa Công an huyện và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tiên Yên.

- Áp dụng khoản 2 Điều 136 - Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy địnhvề mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Buộc các bị cáo Lê Văn C và Hà Văn M1 mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm công khai, có mặt các bị cáo, báo cho biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

243
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 12/2018/HSST ngày 05/10/2018 về tội mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:12/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiên Yên - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;