Bản án 121/2020/HS-ST ngày 30/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIAO THỦY, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 121/2020/HS-ST NGÀY 30/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số:110/2020/TLST-HS ngày 30 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 114/2020/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Đinh Xuân T; sinh năm 1991, tại xã Gi, huyện Gi, tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Xóm 29, xã Gi, huyện Gi, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Theo đạo thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đinh Quang L và bà Vũ Thị C; có vợ là Đinh Thị L và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 09-02-2018 bị Tòa án nhân dân huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định ra quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 24 tháng, chấp hành xong quyết định ngày 13 tháng 02 năm 2020; bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 24-10-2020 chuyển tạm giam từ ngày 27-10-2020 đến nay; “có mặt”.

- Người chứng kiến:

Anh Trịnh Văn Ch; sinh năm 1980 “vắng mặt”; Anh Trịnh Văn Tr; sinh năm 1984 “vắng mặt”;

Ông Đinh Quang L; sinh năm 1961 “có mặt”;

Ông Phan Văn T; sinh năm 1970 “vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 21 giờ ngày 23-10-2020, tổ tuần tra Đồn biên phòng Ba Lạt - BCH bộ đội biên phòng tỉnh Nam Định phối hợp cùng công an xã Giao Thiện, huyện Giao Thủy tỉnh Nam Định làm nhiệm vụ tại trục đường liên xã thuộc khu vực xóm 16, xã Giao Thiện, huyện Giao Thủy phát hiện Đinh Xuân T đang đi bộ một mình có biểu hiện nghi vấn (cất giấu trái phép chất ma túy). Tổ tuần tra đã yêu cầu kiểm tra hành chính đối với Đinh Xuân T. Quá trình kiểm tra T đã tự giác lấy trong túi áo bên trái đang mặc giao nộp cho tổ tuần tra 01 ống nhựa hình trụ màu vàng, đường kính khoảng 05cm, chiều cao khoảng 09cm, bên trong có chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng, T khai nhận đó là ma túy đá của T cất giấu để sử dụng cho bản thân. Tổ tuần tra đã mời người chứng kiến và tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với T, thu giữ 01 ống nhựa màu vàng có chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng được niêm phong trong phong bì thư ký hiệu “M”.

Tại bản kết luận giám định số: 1086/GĐKTHS ngày 24-10-2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu rắn dạng tinh thể màu trắng trong 01 ống nhựa hình trụ màu vàng, đường kính khoảng 05cm, chiều cao khoảng 09cm, được niêm phong ký hiệu M gửi giám định là ma túy. Loại ma túy: Methamphetamine. Khối lượng mẫu M: 1,370gam.

Bản Cáo trạng số 114/CT-VKS ngày 26- 11- 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định truy tố bị cáo Đinh Xuân T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo Đinh Xuân T đã khai nhận toàn bộ hành vi vi phạm của mình như đã nêu trên.

Kiểm sát viên luận tội: Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận hành vi cất giấu trái phép 01 ống nhựa đựng Methamphetamine, có khối lượng là:1,370 gam mục đích để sử dụng cho bản thân. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Đinh Xuân T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Đinh Xuân T từ 21 đến 24 tháng tù. Áp dụng khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự: Tịch thu cho tiêu hủy toàn bộ số ma túy hoàn trả mẫu vật sau giám định.Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là người nghiện ma túy, kinh tế gia đình khó khăn, nên đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

Bị cáo Đinh Xuân T nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của mình là phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được miễn hình phạt bổ sung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Giao Thủy, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Giao Thủy, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố và thành viên Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh và điều luật áp dụng: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu chứng cứ của vụ án nên có đủ cơ sở xác định: Khoảng 21 giờ ngày 23-10-2020, Tổ tuần tra Đồn biên phòng Ba Lạt - BCH bộ đội biên phòng tỉnh Nam Định phối hợp cùng công an xã Giao Thiện, huyện Giao Thủy tỉnh Nam Định làm nhiệm vụ tại trục đường liên xã thuộc khu vực xóm 16, xã Giao Thiện, huyện Giao Thủy phát hiện bắt quả tang Đinh Xuân T có hành vi cất giấu trái phép 01 ống nhựa chứa Methamphetamine, có khối lượng là:1,370 gam bị cáo khai mục đích để sử dụng cho bản thân. Do đó, bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến sự độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu tới trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo có đủ khả năng nhận thức ma túy là hiểm họa của mỗi gia đình và cộng đồng xã hội là một trong những nguyên nhân làm gia tăng các tệ nạn xã hội, gia tăng tội phạm hình sự, xâm phạm tới đạo đức và sức khỏe con người. Bị cáo biết việc làm của mình bị pháp luật cấm, thấy trước được tác hại của ma túy, bị cáo vừa mới chấp hành xong quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc vào tháng 2 năm 2020, nhưng bị cáo không từ bỏ đoạn tuyệt với ma túy mà vẫn cố ý thực hiện hành vi đi mua ma túy về để sử dụng cho bản thân dẫn đến phạm tội. Do đó cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc buộc bị cáo phải tập trung cải tạo một thời gian để giáo dục riêng đối với bị cáo và đáp ứng công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định tại khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng…”, do đó, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo là người nghiện ma túy, kinh tế gia đình khó khăn. Vì vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu cho tiêu hủy toàn bộ số ma túy hoàn trả mẫu vật sau giám định.

Về nguồn gốc số ma túy thu giữ của Đinh Xuân T; T khai vào khoảng 20 giờ ngày 23-10-2020, T đi nhờ xe của một người đi đường không rõ tên, tuổi, địa chỉ đến khu vực chợ xã Giao Tiến, huyện Giao Thủy mua của một người đàn ông không rõ tên, tuổi, địa chỉ 01 ống Methamphetamine với giá 200.000 đồng để sử dụng cho bản thân. Quá trình điều tra chưa xác định được đối tượng đã bán ma túy cho T nên không có căn cứ để xử lý.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[8] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; tuyên bố bị cáo Đinh Xuân T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; xử phạt bị cáo Đinh Xuân T 01 (Một) năm 09 (Chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 24 tháng 10 năm 2020.

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tịch thu cho tiêu hủy toàn bộ số Methamphetamine hoàn trả mẫu vật sau giám định (Theo biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 27-11-2020 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Giao Thủy).

3. Án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Đinh Xuân T phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự, bị cáo Đinh Xuân T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

261
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 121/2020/HS-ST ngày 30/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:121/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giao Thủy - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;