Bản án 121/2020/HS-ST ngày 30/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ Q, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 121/2020/HS-ST NGÀY 30/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 30 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Q, tỉnh Tuyên Quang, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 123/2020/TLST-HS, ngày 11 tháng 11 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 121/2020/QĐXXST-HS, ngày 16 tháng 11 năm 2020, đối với bị cáo:

Họ và tên: NHỮ VĂN M (tên gọi khác Nhữ Văn C), sinh ngày 11 tháng 12 năm 1996, tại tỉnh Tuyên Quang.

Nơi ĐKHKTT, chỗ ở: Tổ 8, phường L, thành phố Q, tỉnh Tuyên Quang;

Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính:

Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam.

Con ông Nhữ Trọng O, sinh năm 1971 và con bà Vũ Thị N, sinh năm 1974.

Anh, chị, em ruột: Có 02 người, bị cáo là thứ nhất.

Vợ, con: Chưa có.

Tiền án: Bản án số 82/2017/HSST ngày 07/7/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Q xử phạt NHỮ VĂN M (tên gọi khác Nhữ Văn C) 01 (Một) năm 07 (Bẩy) tháng tù về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản (chấp hành xong hình phạt tù ngày 06/9/2018).

Tiền sự: - Công an phường L, thành phố Q xử phạt NHỮ VĂN M vi phạm hành chính tại Quyết định số 36/QĐ-XPVPHC ngày 28/12/2018, bằng hình thức phạt tiền 750.000 đồng về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy (chưa nộp phạt).

- Công an phường L, thành phố Q xử phạt NHỮ VĂN M vi phạm hành chính tại Quyết định số 000002/QĐ-XPVPHC ngày 24/5/2019, bằng hình thức phạt tiền 1.000.000 đồng về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy (chưa nộp phạt).

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/8/2020 đến nay, hiện đang tạm giam tại Trại Tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang - Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do là người có sử dụng ma tuý từ trước, nên khoảng 14 giờ ngày 01/8/2020, NHỮ VĂN M (tên gọi khác Nhữ Văn C), trú tại tổ 8, phường L, thành phố Q, tỉnh Tuyên Quang, một mình đi xe taxi đến khu vực đường Lê Lợi 2, thuộc phường T, thành phố Q, mục đích mua ma túy để sử dụng. Tại khu vực Lê Lợi 2 M (C) mua được 01 gói Methamphetamine được gói ngoài bằng nilon màu trắng của một người đàn ông (không xác định được tên tuổi, địa chỉ của người dàn ông nay) với số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng). Sau khi mua được ma túy M (C) cất giấu trong người rồi đi về nhà; đến khoảng 17 giờ cùng ngày, M (C) lấy một ít Methamphetamine ra sử dụng tại nhà bằng hình thức đốt hít vào cơ thể, số còn lại M (C) vẫn để trong túi nilon cất giấu vào giữa hai lớp vải của quai mũ lưỡi trai màu trắng, trên mũ có chữ NIKE màu đen của M đang đội trên đầu, với mục đích để bản thân sử dụng. Khoảng 09 giờ ngày 02/8/2020, M (C) đội chiếc mũ trên có cất giấu gói Methamphetamine trong quai mũ đi câu cá tại khu vực hồ câu thuộc tổ 6, phường L, thành phố Q thì bị Tổ công tác Công an phường L phối hợp với Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Q phát hiện, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang vào hồi 10 giờ cùng ngày, thu giữ 01 gói Methamphetamine mà M đang cất giấu trong mũ.

Tại Kết luận giám định số 598/GĐKTHS ngày 04/8/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tuyên Quang, kết luận: Mẫu vật (thu giữ của Nhữ Văn M) gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine; khối lượng 0,109g (Không phẩy một không chín gam).

Tiến hành xét nghiệm tìm chất ma túy đối với Mạnh, kết quả (+) dương tính, có chất ma túy trong cơ thể.

Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã tạm giữ 01 phong bì niêm phong còn nguyên vẹn, mặt trước ghi “Tang vật vụ NHỮ VĂN M giám định ngày 02/8/2020”, mặt sau trên các mép dán có chữ ký của Nhữ Văn M, các thành phần tham gia niêm phong và 05 hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang, bên trong có chứa 0,089g Methamphetamine (mẫu vật còn lại sau giám định); 01 mũ lưỡi trai màu trắng, trên mũ có chữ NIKE màu đen là vật chứng của vụ án. Tạm giữ 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu xanh, loại bàn phím bấm đã qua sử dụng.

Tại Cơ quan điều tra, NHỮ VĂN M đã khai nhận hành vi phạm tội của mình. Hành vi phạm tội của M còn được chứng minh bằng: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ; Kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Bản Cáo trạng số: 122/CT-VKSTP, ngày 10 tháng 11 năm 2020, của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Q, tỉnh Tuyên Quang, đã truy tố NHỮ VĂN M về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý, theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo M (C) tiếp tục khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy với mục đích để bản thân sử dụng chứ không bán cho ai, nhưng khi đang để ma túy loại Methamphetamine ở trong mũ đang đội trên đầu thì bị phát hiện và bắt giữ. Bị cáo có trực tiếp chứng kiến niêm phong và mở niêm phong bì ma túy đã thu giữ của bị cáo. Bị cáo M không có ý kiến gì về kết quả giám định phong bì đựng ma túy đã thu giữ của bị cáo và không yêu cầu giám định lại; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Q, tỉnh Tuyên Quang, đã truy tố bị cáo là đúng tội, không oan.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên luận tội giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo NHỮ VĂN M và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố: Bị cáo NHỮ VĂN M (tên gọi khác Nhữ Văn C) phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

- Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; đoạn 1 điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật hình sự.

- Xử phạt: Bị cáo NHỮ VĂN M (tên gọi khác Nhữ Văn C) từ 01 (một) năm 05 (năm) tháng đến 01 (một) năm 08 (tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam giam ngày 02/8/2020.

Bị cáo M (C) không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiến đối với bị cáo.

- Về biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

+ Tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì niêm phong còn nguyên vẹn, mặt trước ghi “Tang vật vụ NHỮ VĂN M giám định ngày 02/8/2020”, mặt sau trên các mép dán có chữ ký của Nhữ Văn M, các thành phần tham gia niêm phong và 05 hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang, bên trong có chứa 0,089g Methamphetamine (mẫu vật còn lại sau khi giám định); 01 mũ lưỡi trai màu trắng, trên mũ có chữ NIKE màu đen, đã qua sử dụng là vật chứng của vụ án.

+ Trả lại cho bị cáo M (C) 01 điện thoại nhãn hiệu NOKIA màu xanh, loại bàn phím bấm đã qua sử dụng.

Bị cáo M (C) phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Bị cáo M (C) không có ý kiến tranh luận gì với nội dung luận tội của Kiểm sát viên. Bị cáo M (C) nói lời sau cùng là đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo mức án nhẹ nhất để sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dụng của vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Như vậy, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội Viện kiểm sát đã truy tố bị cáo: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với lời khai tại Cơ quan Cảnh sát điều tra; phù hợp với vật chứng đã thu giữ; Kết luận giám định, nên có đủ cơ sở kết luận: Hồi 10 giờ ngày 02/8/2020, tại khu vực tổ 06, phường L, thành phố Q, tỉnh Tuyên Quang. NHỮ VĂN M (tên gọi khác Nhữ Văn C), cư trú tại tổ 8, phường L, thành phố Q, đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,109g (Không phẩy một không chín gam) Methamphetamine, mục đích để bản thân sử dụng. Bị cáo M (C) đã tàng trữ 0,109g (Không phẩy một không chín gam) là thuộc trường hợp tàng trữ Methamphetamine có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Q, tỉnh Tuyên Quang, truy tố NHỮ VĂN M (tên gọi khác Nhữ Văn C) về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội. Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo M (C) nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma tuý là vi phạm pháp luật; việc sử dụng ma tuý trái phép có ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của bản thân và kinh tế gia đình, gây mất trật tự ở địa phương, góp phần làm gia tăng tệ nạn sử dụng trái phép chất ma tuý ở địa phương, nhưng bị cáo vẫn cố ý sử dụng ma tuý trái phép dẫn đến tàng trữ trái phép chất ma tuý. Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp nghiêm trọng do lỗi cố ý, nên cần xử phạt của bị cáo nghiêm minh theo quy định của pháp luật và cần buộc bị cáo phải cách ly xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo cũng như phục vụ công tác phòng chống tội phạm chung.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo M (C) phạm tội lần này trong thời gian chưa được xoá án tích, nên bị cáo bị áp dụng tình tiết tăng nặng là Tái phạm, quy định tại đoạn 1 điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét thấy bị cáo M (C) tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Do vậy, xử phạt bị cáo M (C) mức án như Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Q, đề nghị tại phiên tòa là phù hợp và có căn cứ pháp luật.

Bị cáo M (C) không có tài sản, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo quy định của pháp luật.

[4] Về biện pháp tư pháp: 01 phong bì đựng ma túy loại Methamphetamine đã niêm phong; 01 chiếc mũ lưỡi trai màu trắng, trên mũ có chữ NIKE màu đen là vật chứng của vụ án. Xét thấy ma tuý là vật cấm lưu hành trái phép; chiếc mũ không còn giá trị sử dụng và bị cáo không đề nghị lấy lại, nên tịch thu tiêu hủy theo quy định tại Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Về 01 điện thoại nhãn hiệu NOKIA màu xanh, loại bàn phím bấm đã qua sử dụng là tài sản của bị cáo M (C) và không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, nên trả lại cho bị cáo M (C) theo quy định.

[5] Hành vi sử dụng trái phép chất ma túy ngày 01/8/2020 của NHỮ VĂN M (tên gọi khác Nhữ Văn C), Công an phường L, thành phố Q đã xử phạt vi phạm hành chính tại Quyết định số 002252/QĐ-XPHC ngày 07/8/2020, phạt tiền 1.000.000 đồng là có căn cứ pháp luật, nên không xem xét, giải quyết.

[6] Đối với người đàn ông, theo NHỮ VĂN M (tên gọi khác Nhữ Văn C) khai nhận là người bán ma túy cho M (C) tại khu vực Lê Lợi 2, có số điện thoại là 0988349604, nhưng không xác định được tên tuổi, địa chỉ cụ thể. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Q đã ra Lệnh thu giữ điện tín số 05 ngày 24/9/2020, nhưng đến nay chưa có kết quả, nên đã tách ra để tiếp tục điều tra, xử lý khi có đủ căn cứ là đúng quy định của pháp luật, nên không xem xét giải quyết theo quy định.

Bị cáo M (C) phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; đoạn 1 điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật hình sự.

* Tuyên bố: Bị cáo NHỮ VĂN M (tên gọi khác Nhữ Văn C) phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

* Xử phạt: Bị cáo NHỮ VĂN M (tên gọi khác Nhữ Văn C) 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 02 tháng 8 năm 2020.

2. Về biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu huỷ 01 (một) phong bì niêm phong còn nguyên vẹn, mặt trước ghi “Tang vật vụ NHỮ VĂN M giám định ngày 02/8/2020”, mặt sau trên các mép dán có chữ ký của Nhữ Văn M, các thành phần tham gia niêm phong và 05 hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang, bên trong có chứa 0,089g Methamphetamine (mẫu vật còn lại sau giám định); 01 (một) mũ lưỡi trai màu trắng, trên mũ có chữ NIKE màu đen, đã qua sử dụng.

- Trả lại cho bị cáo NHỮ VĂN M (tên gọi khác Nhữ Văn C) 01 (một) điện thoại nhãn hiệu NOKIA màu xanh, loại bàn phím bấm, số xê-ri 352431057168065, đã qua sử dụng.

Tình trạng vật chứng và tài sản trên như Biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thành phố Q với Chi cục thi hành án dân sự thành phố Q, tỉnh Tuyên Quang lập ngày 18/11/2020.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo NHỮ VĂN M (tên gọi khác Nhữ Văn C) phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo:

- Bị cáo NHỮ VĂN M (tên gọi khác Nhữ Văn C) được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

255
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 121/2020/HS-ST ngày 30/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:121/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tuyên Quang - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;