TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ KON TUM, TỈNH KON TUM
BẢN ÁN 121/2020/HS-ST NGÀY 03/11/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 03/11/2020 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Kon Tum - tỉnh Kon Tum, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 116/2020/TLST - HS ngày 08/10/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 117/2020/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo:
Hồ T (tên gọi khác: Hồ Văn T, B), sinh năm 1979 tại Kon Tum.
Nơi cư trú: Hẻm 110 M, phường N, thành phố P, tỉnh KonTum; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 01/12, dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Hồ Văn L, sinh năm 1945 và bà Hoàng Thị Ngọc T (đã chết); bị cáo có vợ là Thái Thị Tường V, sinh năm 1977 và 02 con, con lớn sinh năm 2004, con nhỏ sinh năm 2018; tiền án: Không, tiền sự: 01.
Quyết định số 0000019 QĐ/XPVPHC ngày 10/12/2018 của Công an phường N, thành phố P xử phạt bị cáo 1.500.000 đồng vì đã thực hiện hành vi “Trộm cắp tài sản”.
Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 15/7/2020 đến nay có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại:
1. Anh Nguyễn Hoàng S, sinh năm 1972 (Có đơn xin xét xử vắng mặt) Trú tại: Số 16 N , thành phố P, tỉnh Kon Tum.
2. Chị Nguyễn Thị Mỹ D, sinh năm 1975 (Có đơn xin xét xử vắng mặt) Trú tại Số 16 Đặng Thái T, thành phố P, tỉnh Kon Tum.
- Người làm chứng:
Anh Vũ Thanh T, sinh năm 1988 (Vắng mặt) Trú tại: Số 11 Đặng Thái T, thành phố P , tỉnh Kon Tum.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 9 giờ 00 ngày 05/04/2020 Hồ T sau khi đi uống thuốc cai nghiện tại Trung tâm y tế phường N , thành phố P về ra trước cổng thì gặp Bộ (chưa rõ nhân thân lai lịch). Tại đây, Bộ rủ Hồ T đi đánh bả chó, để bắt chó bán lấy tiền tiêu xài, T đồng ý. Lúc này, Bộ dùng xe mô tô (nhãn hiệu Yamaha Sirius không rõ biển số) chở T đi đến phường N , thành phố P , đi qua nhà gia đình ông Nguyễn Hoàng S tại 16 Đặng Thái T phường N, thành phố P nhìn thấy 02 con chó (01 con lông màu vàng, 01 con lông màu đen). Quan sát thấy không có ai trông coi, Bộ dừng xe và lấy trong túi quần ra 02 cục bả chó bọc bằng túi ni lông màu trắng rồi ném về phía 02 con chó. Sau khi 02 con chó ăn bả chó và chết, T xuống xe mô tô đi đến phía 02 con chó bê lên xe mô tô thì bị ông S phát hiện tri hô đuổi theo bắt giữ được Hồ T và trình báo Công an Phường N lập biên bản phạm tội quả tang còn Bộ điều khiển xe mô tô chạy thoát.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 34/ĐG-TS ngyà 15/4/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự - Ủy ban nhân dân thành phố P kết luận: 01 con chó cỏ lai, lông vàng hơn 01 năm tuổi, cân nặng 12 kg; 01 con chó cỏ lai, lông màu đen, hơn 01 năm tuổi, cân nặng 13 kg có tổng giá trị là 1.500.000 đồng.
Đối với Hồ T ngày 10/12/ 2018 bị Công an phường N, thành phố P ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính phạt tiền 1.500.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản” nhưng chưa nộp phạt (chưa hết thời hiệu).
Tại bản cáo trạng số 122/CT-VKSTP P ngày 07/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P đã truy tố bị cáo Hồ T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố P giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Hồ T phạm tội “Trộm cắp tài sản”; áp dụng điểm a khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Hồ T từ 06 tháng tù đến 09 tháng tù; Về vật chứng : Cơ quan điều tra thu giữ 02 con chó đã xử lý trả lại cho bị hại là đúng quy định của pháp luật; về trách nhiệm dân sự: Người bị hại không có yêu cầu bị cáo bồi thường nên không đề cập.
Lời nói sau cùng của các bị cáo: Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố P , Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo, bị hại không có người nào có ý kiến về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo toàn bộ hành vi phạm tội. Vì vậy, có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 9 giờ 00 ngày 05/04/2020 Hồ T là đối tượng nghiện ma túy, sau khi đi uống thuốc cai nghiện từ Trung tâm y tế phường Ngô Mây, thành phố P về thì gặp Bộ. Khi hai người gặp nhau Bộ rủ T “đi trộm cắp tài sản kiếm tiền tiêu xài”, T đồng ý ngay. Sau đó Bộ dùng xe mô tô chở T đi tới nhà ông Nguyễn Hoàng Sơn tại số nhà 16 Đặng Thái Thuyến, p, thành phố Kon Tum, lợi dụng sự sơ hở trong việc quản lý tài sản của gia đình ông Sơn, Bộ và T đã thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản bằng thủ đoạn dùng thuốc (bả chó) đầu độc 02 con chó của nhà ông Sơn ăn phải thuốc chết. Trong lúc T xuống bê 02 con chó lên xe của Bộ để đi tiêu thụ thì bị ông Sơn phát hiện, tri hô cùng mọi người đuổi theo bắt giữ T cùng tang vật, còn Bộ dùng xe mô tô chạy thoát. Giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt 02 con chó được định giá là 1.500.000 đồng (Một triệu năm trăm nghìn đồng).
Đối với Hồ T ngày 10/12/ 2018 bị Công an p, thành phố Kon Tum ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính phạt tiền 1.500.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản” nhưng chưa nộp phạt (chưa hết thời hiệu), ngày 05/04/2020 thực hiện hành vi “trộm cắp tài sản” đây là tình tiết cấu thành tội trộm cắp tài sản. Do đó, hành vi của Hồ T đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự như bản cáo trạng truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Xét tính chất, mức độ phạm tội: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác , gây ảnh hưởng xấu về an ninh, trật tự, an toàn xã hội tại địa phương. Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý, trộm cắp tài sản vào thời gian ban ngày, mục đích chiếm đoạt tài sản vì vụ lợi. Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, lười lao động không chịu rèn luyện, tu dưỡng bản thân. Bị cáo phạm tội vì đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản trước đó, vì vậy cần cách ly bị cáo với đời sống xã hội đ ể tiếp tục cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội, đồng thời răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.
[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng.
[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo nên Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[6] Về nhân thân: Bị cáo Hồ T đã bị Tòa án kết án nhiều lần về tội “Trộm cắp tài sản” cụ thể như sau:
- Ngày 12/12/1996 bị Tòa án nhân dân thị xã P xử phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản” (đã xóa án tích);
- Ngày 29/5/1997 bị Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (đã xóa án tích);
- Ngày 24/5/2000 bị Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum xử phạt 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” (đã xóa án tích);
- Ngày 08/7/2005 bị Tòa án nhân dân thị xã P xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (đã xóa án tích);
- Ngày 23/11/2015 bị công an thành phố Kon Tum xử phạt về hành vi “ Tàng trữ trái phét chất ma túy” phạt tiền 1.500.000 đồng (đã nộp phạt).
- Ngày 10/12/ 2018 bị Công an p, thành phố Kon Tum ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính phạt tiền 1.500.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản” (chưa hết thời hiệu) lại tiếp tục phạm tội nên xác định bị cáo là người có nhân thân xấu, không chấp hành pháp luật tốt tại địa phương.
Đối với đối tượng tên Bộ có hành vi đồng phạm là người rủ T thực hiện hành vi phạm tội. Tuy nhiên đối tượng Bộ sau khi thực hiện hành vi phạm tội đã chạy trốn, Cơ quan điều tra Công an thành phố P đang điều tra và chưa làm rõ nhân thân, lai lịch nên tục điều tra, xác minh khi nào bắt được sẽ xử lý sau.
Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng đối với bị cáo vì bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định.
[7] Về vật chứng: Cơ quan điều tra thu giữ 02 con chó đã xử lý trả lại cho bị hại là đúng quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử không đề cập đến.
[8] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản bị mất và không có yêu cầu gì thêm về mặt dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[9] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh:
Tuyên bố bị cáo Hồ T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
2. Về hình phạt:
Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
Xử phạt bị cáo Hồ T 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam 15/7/2020
3.Về án phí:
Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a, c khoản 1 Điều 23 – Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 31/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về mức miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.
4.Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự, trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (03/11/2020) bị cáo có quyền làm đơn kháng cáo để xin xét xử lại theo trình tự phúc thẩm. Riêng đối với người bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết.
Bản án 121/2020/HS-ST ngày 03/11/2020 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 121/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Kon Tum - Kon Tum |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 03/11/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về