TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG TRÔM - TỈNH BẾN TRE
BẢN ÁN 121/2019/HNGĐ-ST NGÀY 11/09/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 11 tháng 9 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 165/2019/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng 5 năm 2019 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 259/2019/QĐST-HNGĐ ngày 12 tháng 8 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 179/2019/QĐST-HNGĐ ngày 29 tháng 8 năm 2019 giữa các đương sự:
* Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị N1 C, sinh năm: 1981;
Nơi cư trú: số A, ấp B, thị trấn G, huyện G, tỉnh Bến Tre.
* Bị đơn: Ông Nguyễn Công M, sinh năm: 1977;
Nơi cư trú: số A, ấp B, thị trấn G , huyện G, tỉnh Bến Tre.
(Bà C có mặt, ông M vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai cùng các văn bản, tài liệu chứng cứ cung cấp cho Tòa án cũng như tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn Nguyễn Thị N1 C trình bày:
Bà và ông M quen nhau từ năm 1997, hai bên tìm hiểu đến năm 2006 thì tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn vào ngày 07/2/2007 tại Ủy ban nhân dân thị trấn G, huyện G, tỉnh Bến Tre. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống với cha mẹ ông M tại thị trấn G, tỉnh Bến Tre. Vợ chồng sống hạnh phúc được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, tính tình không phù hợp, ông M nhiều lúc gia trưởng, tiền bạc trong nhà do ông M quản lý. Ông M đưa tiền cho bà chi tiêu trong gia đình nhưng đưa ít không đủ chi tiêu. Trong cuộc sống gia đình ông M tự quyết định mọi vấn đề như chăn nuôi hay mua bán gì đều không hỏi ý kiến bà C. Ngoài ra ông M còn ghen tuông vô cớ, nghi ngờ bà C quen với người phụ nữ khác, nói xấu bà với mọi người nên bà không thể chung sống với ông M được nữa. Ông bà đã ly thân từ tháng 12/2018 đến nay. Nay bà khẳng định không còn tình cảm với ông M, vợ chồng không thể hàn gắn và chung sống với nhau được nữa vì vậy bà yêu cầu Tòa án giải quyết:
- Về hôn nhân: Xin ly hôn với ông Nguyễn Công M.
- Về con chung: Quá trình chung sống ông bà có hai con chung tên Nguyễn Thị Kim N, sinh ngày 29/4/2008 và Nguyễn Thị Ánh N1, sinh ngày 01/9/2012. Sau khi ly hôn bà yêu cầu được trực tiếp nuôi 02 con, yêu cầu ông M cấp dưỡng nuôi 02 con mỗi tháng bằng với một tháng lương cơ bản hiện nay là 1.490.000 đồng. Hiện tại bà thuê nhà ở gần nhà anh M để chăm sóc hai con và để hai con được tiếp tục học tập tại trường thị trấn Giồng Trôm.
- Về tài sản chung: Không tranh chấp, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Về nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Theo bản tự khai, biên bản hòa giải cũng như tại phiên tòa hôm nay bị đơn ông Nguyễn Công M trình bày:
Ông thống nhất với lời trình bày của bà C về thời gian và điều kiện kết hôn. Hai vợ chồng tìm hiểu và yêu thương nhau gần mười năm thì quyết định tiến đến hôn nhân. Sau khi cưới nhau hai vợ chồng cùng chung sống với cha mẹ ông rất hạnh phúc và vợ chồng có hai con. Ông M cho rằng ông không gia trưởng hay độc đoán gì cả. Sau khi cưới nhau ông lo làm vườn trồng trọt chăn nuôi còn bà C thì phụ mẹ chồng buôn bán sách. Hiện tại ông rất thương bà C, ông cũng không có ghen tuông vô cớ hay đánh đập bà C. Trước đây có cô giáo dạy học cho con ông rồi ở lại nhà ngủ cùng với bà C nên ông không đồng ý vì có nghe nhiều thông tin xấu về cô giáo đó nên nói cho bà C biết chứ ông không có nói xấu bà C. Còn vấn đề về kinh tế gia đình do nhà ông có 02 căn nhà, một căn ở chợ để buôn bán cha mẹ và vợ con ông sống ở đây, còn ông ở căn nhà trong vườn để trồng trọt và chăn nuôi đến tối ông mới về nhà với vợ con. Còn bà C thì phụ bán sách với mẹ của ông. Vì vậy, những việc chăn nuôi ở dưới vườn có lúc do ông tự quyết định không có bàn với bà C. Đối với việc giữ tiền và chi tiêu trog gia đình, nếu bà C không hài lòng ông giữ tiền thì ông sẽ giao tiền cho bà C giữ và sửa đổi những việc bà C không hài lòng. Hiện tại ông còn thương vợ con, ông không muốn ly hôn với bà C.
- Về con chung: Quá trình chung sống ông bà có hai con chung tên Nguyễn Thị Kim N, sinh ngày 29/4/2008 và Nguyễn Thị Ánh N1, sinh ngày 01/9/2012. Hiện hai con đang sống cùng ông bà và đi học tại trường thị trấn Giồng Trôm. Ông không muốn ly hôn và giao con cho bà C nuôi vì bà C nói sẽ dẫn con về sống tại nhà mẹ ruột ở C Thành, sẽ ảnh hưởng đến việc học của hai con. Nếu phải ly hôn ông yêu cầu được nuôi hai con, ông không cấp dưỡng nuôi con. Nếu bà C nuôi con ông cũng đồng ý nhưng ông không có khả năng cấp dưỡng mỗi tháng 10.000.000 đồng vì ông làm nông dân, chăn nuôi heo hiện đang gặp khó khăn, thu nhập không ổn định, ông chỉ đồng ý cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.
- Về tài sản chung: Không tranh chấp, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Về nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại Tòa bà C phát biểu tranh luận: Bà vẫn giữ quan điểm xin được ly hôn với ông M vì vợ chồng không thể hàn gắn được. Ông M nghi ngờ bà quen người phụ nữ khác, có khi lại nghi ngờ bà quen với người đàn ông khác, nói xấu bà gây mất uy tín của bà. Hiện nay bà đã xin việc làm và đi làm công ty để có thể tự lập về kinh tế. Do cả hai con của ông bà đều là con gái đang trong giai đoạn dậy thì nên bà yêu cầu được nuôi cả hai con.
Đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Giồng Trôm phát biểu:
-Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, thư ký, Hội đồng xét xử là đúng quy định; việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: bà C thực hiện đúng, ông M không thực hiện đúng, vắng mặt không lý do tại phiên tòa.
- Về nội dung giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà C cụ thể, về hôn nhân: Bà C được ly hôn với ông M. Về con chung: Bà C được nuôi 02 con, ông M có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi 02 con theo quy định pháp luật cho đến khi con chung đủ 18 tuổi. Về tài sản chung và nợ chung không có nên không xem xét giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào lời trình bày của nguyên đơn, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền: Bà C khởi kiện xin ly hôn với ông M, ông M hiện đang cư trú tại thị trấn Giồng Trôm, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự. Ông M đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng ông M vắng mặt. Vì vậy, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông M là phù hợp theo quy định tại khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về hôn nhân: Bà C và ông M thống nhất ông bà tự quen biết và có tình cảm với nhau vào năm 1997. Sau thời gian tìm hiểu hơn 9 năm, đến năm 2006, ông bà tự nguyện kết hôn và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn Giồng Trôm vào ngày 07/02/2007. Sau khi cưới nhau ông bà sống chung với cha mẹ ông M tại thị trấn Giồng Trôm.
Tại tòa, bà C cho rằng nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn là do ông M có tính gia trưởng, quyết định mọi vấn đề trong nhà không bàn bạc với bà, giữ tiền và đưa tiền cho bà C không đủ để chi tiêu, đồng thời ông M còn ghen tuông vô cớ, nói xấu bà gây mất uy tín cho bà, gia đình ông M cũng không tin tưởng hay theo dõi và nói xấu bà.
Trong quá trình hòa giải, ông M cũng thống nhất với ý kiến của bà C lý do khiến hai vợ chồng mâu thuẫn. Tuy nhiên, ông cho rằng ông không có gia trưởng và ghen tuông vô cớ. Ông sẽ sửa đổi những việc làm mà bà C không hài lòng để vợ chồng hàn gắn.
Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành mời ông bà đến để hòa giải, động viên cho ông bà hàn gắn hạnh phúc. Bà C vẫn kiên quyết xin ly hôn. Ông M không đồng ý ly hôn với bà C, ông M xin thời gian để thuyết phục bà C. Tuy nhiên đến nay ông cũng không đưa ra biện pháp gì để thuyết phục bà C thay đổi ý kiến về việc xin ly hôn với ông. Do không thể hòa giải nên Tòa án đưa vụ án ra xét xử nhưng ông M vắng mặt không lý do. Vào ngày 09/9/2019, ông M có gửi văn bản trình bày ý kiến thể hiện tình cảm đối với bà C và các con, tòa án đã thông báo nội dung văn bản này cho bà C nhưng bà C vẫn kiên quyết xin ly hôn với ông M.
Hội đồng xét xử xét thấy, quan hệ hôn nhân xuất phát từ sự tự nguyện của hai bên. Trong cuộc sống hôn nhân, giữa bà C và ông M đã thực sự xảy ra nhiều mâu thuẫn. Ông M sau nhiều lần trình bày ý kiến không đồng ý ly hôn và đề nghị hàn gắn với bà C nhưng bà C đều không đồng ý. Hiện tại ông bà không còn tin tưởng, yêu thương, chăm sóc, chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình, không thể hiện sự bình đẳng, tôn trọng, giữ gìn và bảo vệ danh sự, nhân phẩm, uy tín cho nhau là vi phạm nghiêm trọng, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng làm cho hôn nhân lâm vào trình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên ly hôn là biện pháp tốt nhất cho cả hai. Vì vậy, xét yêu cầu xin ly hôn của bà C là có cơ sở để chấp nhận.
[3] Về con chung: Quá trình chung sống ông bà có hai con chung tên Nguyễn Thị Kim N, sinh ngày 29/4/2008 và Nguyễn Thị Ánh N1, sinh ngày 01/9/2012. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành lấy ý kiến em Nguyễn Thị Kim N và Nguyễn Thị Ánh N1 đều có nguyện vọng muốn sống với mẹ là bà C. Hiện tại tuy không sống chung với anh M nhưng bà C cho rằng đã thuê nhà để sống gần nhà anh M để chăm sóc hai con và tạo điều kiện cho hai con được tiếp tục học tập ổn định tại trường cũ của hai con. Tại biên bản hòa giải ngày 28/5/2019, ông M cũng thể hiện nếu ly hôn ông cũng đồng ý giao hai con cho bà C nuôi dưỡng. Cả hai con đều là con gái nên tiếp tục giao cho bà C trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc sẽ tốt hơn, không ảnh hưởng đến sự phát triển của con chung sau này. Vì vậy, xét yêu cầu nuôi hai con chung của bà C là có cơ sở để chấp nhận.
Đối với yêu cầu cấp dưỡng nuôi hai con chung, tại tòa bà C có thay đổi yêu cầu, bà C chỉ yêu cầu ông M cấp dưỡng nuôi hai con mỗi tháng 1.490.000 đồng. Đối với yêu cầu này, Hội đồng xét xử nhận thấy: bà C cho rằng ông M hiện làm nông dân thu nhập hàng tháng bao nhiêu bà cũng không rõ. Hai ông bà cũng không có thỏa thuận về mức cấp dưỡng nuôi con. Do đó, không có cơ sở xác định mức thu nhập thực tế hiện nay của ông M. Bà C chỉ yêu cầu ông M cấp dưỡng nuôi hai con mỗi tháng 1.490.000 đồng bằng với mức lương cơ bản hiện nay nên được chấp nhận.
[4] Về tài sản chung: Bà C và ông M đều không tranh chấp, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết trong vụ án này, nếu sau này phát sinh tranh chấp các bên có quyền khởi kiện bằng vụ án khác.
[5] Về nợ chung: Bà C và ông M đều khai không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Giồng Trôm là phù hợp nên được chấp nhận.
[6] Về án phí: Bà C phải chịu án phí đối với yêu cầu xin ly hôn, ông M phải chịu án phí đối với nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định tại Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ các Điều 28, 35, 39, 147, 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, 56, 58, 59, 81, 82, 83, 84, 116 Luật hôn nhân gia đình; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị N1 C, cụ thể:
[1] Về hôn nhân: Bà Nguyễn Thị N1 C được ly hôn với ông Nguyễn Công M.
[2] Về con chung: Bà Nguyễn Thị N1 C được quyền trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chung Nguyễn Thị Kim N, sinh ngày 29/4/2008 và Nguyễn Thị Ánh N1, sinh ngày 01/9/2012.
Buộc ông Nguyễn Công M có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi 02 con mỗi tháng là 1.490.000đ (một triệu bốn trăm chín mươi nghìn) đồng, mỗi con là 745.000 (bảy trăm bốn mươi lăm nghìn) đồng/tháng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.
Ông Nguyễn Công M có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.
Vì lợi ích của con, một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Tòa án quyết định thay đổi việc cấp dưỡng cho con.
Trong trường hợp có yêu cầu của một, cả hai bên hoặc của cá nhân, cơ quan, tổ chức quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án, nếu người phải thi hành án chưa thi hành các khoản trên thì phải chịu lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357 Bộ luật dân sự 2015.
[3] Về tài sản chung: Bà Nguyễn Thị N1 C và ông Nguyễn Công M đều thống nhất không tranh chấp nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[4] Về nợ chung: Bà Nguyễn Thị N1 C và ông Nguyễn Công M thống nhất không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[5] Về án phí:
Bà Nguyễn Thị N1 C phải nộp án phí dân sự sơ thẩm là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: 0002284 ngày 16 tháng 5 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Bà C đã nộp xong án phí.
Buộc ông Nguyễn Công M có nghĩa vụ nộp án phí là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng).
“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.
[6] Bà Nguyễn Thị N1 C được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Ông Nguyễn Công M được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm.
Bản án 121/2019/HNGĐ-ST ngày 11/09/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 121/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Giồng Trôm - Bến Tre |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 11/09/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về