Bản án 121/2017/HSST ngày 30/08/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 121/2017/HSST NGÀY 30/08/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 8 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố L tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 120/2017/HSST ngày 08 tháng 8 năm 2017 đối với bị cáo:

Đồng Duy H, sinh ngày 20 tháng 6 năm 1989 tại thành phố L, tỉnh Lạng Sơn. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Số 59 đường T, khối 15, phường H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn 12/12; con ông Đồng Duy H và bà Dương Thị H; vợ: Lê Thị H; con: có 01 con sinh năm 2014; tiền sự; tiền án: Không có; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/5/2017 cho đến nay. Có mặt.

NHẬN THẤY

Bị cáo Đồng Duy H bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố L, tỉnh Lạng Sơn truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Vào 12 giờ ngày 09/5/2017, tại khu vực đường vòng xuyến, khu đô thị Phú Lộc 4 đường L, phường V, thành phố L, tổ công tác của Công an thành phố Lạng Sơn làm nhiệm vụ, phát hiện bắt quả tang Đồng Duy H có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ của Đồng Duy H 01 túi ni lon bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng.

Tại Cơ quan điều tra Đồng Duy H khai nhận: Do bản thân mắc nghiện ma túy, nên bị cáo thường mua loại ma túy dạng đá để sử dụng. Khoảng 12 giờ ngày 09/5/2017, khi H đang ngủ ở nhà một người bạn mới quen tên là P tại khu vực đường N, phường T, thành phố L thì P gọi H dậy, sau đó Pi lấy xe máy chở Hà đến khu vực đường vòng xuyến khu đô thị Phú Lộc 4 đường L phường V, thành phố L. P đưa cho H 250.000 đồng (hai trăm năm mươi ngàn) và bảo H sang gặp người đàn ông khoảng 40 tuổi, đang đứng cạnh đường mua ma túy để P đi đón bạn. H sang gặp người đàn ông đưa tiền cho người này và nhận 01 túi ni lon bên trong đựng chất tinh thể màu trắng, cất vào túi quần bên phải đang mặc. Khi đang đứng đợi P quay trở lại đón, thì bị lực lượng Công an phát hiện bắt giữ.

Tại Bản giám định số 185/KL-PC54 ngày 14/5/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Số tinh thể trong túi ni lon thu được khi bắt qủa tang Đồng Duy H là chất ma túy Methamphetamine trọng lượng 1,180 gam.

Tại bản Cáo trạng số 123/KSĐT ngày 07 tháng 8 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố L, truy tố bị cáo Đồng Duy H về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự.

Tại bản luận tội vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố L giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Đồng Duy H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 33 Bộ luật hình sự; điểm b khoản 1, điểm h khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật hình sự 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14; khoản 3 Điều 7, khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo Đồng Duy H từ 15 tháng tù đến 18 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung vì không có tài sản riêng.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong đựng mẫu vật sau giám định và buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa bị cáo Đồng Duy H đã khai nhận đúng như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố và không tranh luận gì.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo,

XÉT THẤY

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Đồng Duy H thừa nhận: Do bị mắc mắc nghiện ma túy dạng đá từ tháng 02/2017 và quen biết người đàn ông tên "P" (không rõ họ và địa chỉ) Khoảng 12 giờ ngày 09/5/2017, khi đang ngủ tại phòng trọ của P thì P lấy lý do đi đón bạn gái. Vì vậy P lấy xe máy chở bị cáo đi đến đường vòng xuyến, thuộc khu đô thị Phú Lộc 4, đường L, phường H, thành phố L. Tại đây, P đưa cho bị cáo 250.000 đồng (hai trăm năm mươi ngàn) và chỉ cho bị cáo cầm tiền đi sang đường mua với một người đàn ông không biết tên, đang đứng chờ một gói ma túy tổng hợp dạng đá đựng trong túi nilon. Bị cáo cất gói ma túy vừa mua được vào túi quần bên phải đang mặc, còn P đi xe máy đón bạn gái. Trong lúc bị cáo đang đứng chờ P quay trở lại đón để về nhà cùng sử dụng ma túy thì bị lực lượng Công an thành phố L đến kiểm tra thu giữ gói ma túy, lập biên bản bắt quả tang và niêm phong vật chứng.

Theo kết luận giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Lạng Sơn chất tinh thể màu trắng, đựng trong 01 túi ni lon được niêm phong thu giữ khi bắt quả tang Đồng Duy H là chất ma túy Methamphetamine trọng lượng 1,180 gam. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với bản tự khai, các biên bản lời khai tại Cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Như vậy có đủ căn cứ khẳng định Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố L truy tố bị cáo Đồng Duy H, về tội "tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo khoản 1 Điều 194 của Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội.

Hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý chất ma tuý của Nhà nước, gây mất trật tự, trị an tại địa phương. Bị cáo nhận thức được tác hại của ma túy và việc tàng trữ trái phép ma túy là vi phạm pháp luật; việc sử dụng ma túy ảnh hưởng tới sức khỏe, thiệt hại về kinh tế của cá nhân và gia đình, là một nguyên nhân lây nhiễm căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS và các loại tội phạm hình sự khác. Nhưng để thỏa mãn nhu cầu của bản thân, bị cáo vẫn cố tình thực hiện.

Về tình tiết tăng nặng: Không có.

Tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo. Mặt khác, bị cáo có bố đẻ là ông Đồng Duy H được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương chiến công hạng ba, do đã có niên hạn và thành tích trong công tác ở biên giới phía Bắc. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử sẽ xem xét khi quyết định hình phạt.

Căn cứ điểm b khoản 1, điểm h khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật hình sự 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14; tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, quy định mức khởi điểm và mức cao nhất của khung hình phạt đều nhẹ hơn khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999. Vì vậy, Hội đồng xét xử sẽ áp dụng các quy định có lợi cho bị cáo khi quyết định hình phạt Xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, nhân thân người phạm tội và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ được chấp nhận. Bởi lẽ bị cáo phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng, cần tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để bị cáo cải tạo, từ bỏ ma túy trở thành người có ích cho gia đình và xã hội là cần thiết, nhằm góp phần dăn đe và phòng ngừa tội phạm tại địa phương.

Về hình phạt bổ sung: Tại biên bản xác minh ngày 17/5/2017 của Cơ quan điều tra Công an thành phố L thể hiện bị cáo không có tài sản riêng, vì vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo là phù hợp.

Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho bị cáo, do bị cáo không biết họ tên và địa chỉ khi giao dịch và đối tượng tên "P" là người đưa tiền cho bị cáo để mua ma túy. Cơ quan điều tra đã phối hợp với Ủy ban nhân dân phường T, thành phố L thẩm tra, xác minh không làm rõ được lý lịch nên không có căn cứ khởi tố. Hội đồng xét xử không đặt ra vấn đề xử lý.

Về xử lý vật chứng: Gồm 01 (một) phong bì niêm phong đựng mẫu vật sau giám định, đây là chất gây nghiện do Nhà nước nghiêm cấm lưu hành. Do đó cần tịch thu, tiêu hủy theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự là phù hợp.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Đồng Duy H phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

- Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46, Điều 33 Bộ luật hình sự 1999; điểm b khoản 1, điểm h khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật hình sự 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14; khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

- Xử phạt bị cáo Đồng Duy H 01 (một) năm 04 (bốn) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 09 tháng 5 năm 2017.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì niêm phong đựng mẫu vật sau giám định; (hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố L, tỉnh Lạng Sơn theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 31/7/2017)

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Đồng Duy H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm để sung ngân sách Nhà nước.

4. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

290
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 121/2017/HSST ngày 30/08/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:121/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;