TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIÊN DU, TỈNH BẮC NINH
BẢN ÁN 121/2017/HSST NGÀY 15/09/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 15/9/2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 124/2017/HSST ngày 18/8/2017 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 121/2017/HSST-QĐ ngày 01/9/2017 đối với bị cáo: Nguyễn Năng T, sinh năm 1976
ĐKHKTT: thôn L, thị trấn L, huyện T, tỉnh Bắc Ninh
Trình độ học vấn: 7/12; Nghề nghiệp: Không Con ông Nguyễn Năng Đ, sinh năm 1944, làm ruộng Con bà Nguyễn Thị Y, sinh năm 1948, làm ruộng
Vợ, con: chưa có
Gia đình có 04 anh em, bị cáo là thứ hai
Tiền án, tiền sự: Không.
Nhân thân:
Tại bản án hình sự phúc thẩm số 12 ngày 27/5/1996, bị Tòa án nhân dân tỉnh Hà Bắc xử phạt Cảnh cáo về tội “Hủy hoại tài sản”
Ngày 05/01/1998 bị chủ tịch UBND xã Vân Tương- Từ Sơn áp dụng biện pháp giáo dục tại xã thời hạn 6 tháng.
Ngày 15/12/1998 bị Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Ninh quyết định áp dụng biện pháp chữa bệnh bắt buộc tại trung tâm giáo dục, dạy nghề hướng thiện tỉnh Bắc Ninh, thời hạn 6 tháng
Tại bản án số 27 ngày 19/9/2000, bị Tòa án nhân dân huyện Tiên Du xử phạt 14 tháng tù về tội “Sử dụng trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong hình phạt ngày 21/12/2001.
Tại bản án số 07 ngày 28/11/2002, bị Tòa án nhân dân huyện Tiên Du xử phạt 30 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong ngày 03/01/2005
Ngày 09/12/2005 bị Chủ tịch UBND huyện Tiên Du quyết định đưa vào trung tâm Giáo dục- Dạy nghề- Hướng thiện tỉnh Bắc Ninh thời hạn 12 tháng.
Tại bản án số 84 ngày 25/9/2008, bị Tòa án nhân dân huyện Tiên Du xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt ngày 22/7/2009.
Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 15/6/2017. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh. Có mặt tại phiên tòa.
* Người bị hại: Chị Đỗ Thị T, sinh năm 1985, xin xét xử vắng mặt
Địa chỉ: thôn T, xã P, huyện T, tỉnh Bắc Ninh.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Do không có tiền chi tiêu và mua ma túy sử dụng nên khoảng 15 giờ ngày 11/6/2017 tại số nhà 24, đường L, thị trấn L, huyện Ti, Nguyễn Năng T đã lén lút trộm cắp một chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave anpha, màu xanh, BKS99H2- 6561 của chị Đỗ Thị T sau đó bị cáo mang xe máy trộm cắp được đến quán bán hàng nước của anh Nguyễn Hồng Ph ở cổng bệnh viện đa khoa thị xã T đặt làm tin và vay 700.000đ. Số tiền này bị cáo đã ăn tiêu hết.
Tại biên bản họp và kết luận định giá tài sản ngày 13/6/2017 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Tiên Du kết luận: chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave anpha màu xanh, BKS 99H2-6561, số khung Y373322, số máy HC09E 0373403, có giá trị còn lại là 5.000.000đ.
Với hành vi phạm tội nêu trên, bản Cáo trạng số 93/CTr-VKS ngày 18/8/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Tiên Du để xét xử bị cáo Nguyễn Năng T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 BLHS.
Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo khai nhận: do không có tiền mua ma túy về sử dụng nên bị cáo đã nảy sinh ý định trộm cắp tài sản của người khác. Ngày 11/6/2017 bị cáo đi lang thang ơ thị trấn L thì phát hiện thấy có chiếc xe máy Honda Wave anpha để sơ hở, chìa khóa vẫn cắm ở ổ khóa, bị cáo đã lén lút dắt lấy chiếc xe và điều khiển xe về thị xã T tiêu thụ. Bị cáo đặt làm tin cho anh Ph và vay được số tiền 700.000đ. Với số tiền này, bị cáo sử dụng mua ma túy hết 200.000đ, còn lại bị cáo sử dụng chi tiêu cá nhân. Sau khi biết hành vi trộm cắp của bị cáo, bố bị cáo đã cho bị cáo tiền đi lấy lại chiếc xe từ chỗ anh Ph về trả lại cho người bị hại. Bị cáo biết việc bị cáo trộm cắp xe của chị T là sai. Khi bị bắt giữ bị cáo không bị T giữ gì.
Người bị hại là chị Đỗ Thị T xin xét xử vắng mặt. Tại cơ quan điều tra, chị đã khai nhận: Ngày 11/6/2017 chị có để xe máy trước cửa hàng bán sim số đẹp Viettel thì bị mất trộm. Ngày 04/8/2017 chị đã nhận lại chiếc xe do vậy chị không có yêu cầu gì về trách nhiệm dân sự đối với bị cáo và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du sau khi phân tích, đánh giá tính chất, nguyên nhân, động cơ của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố.
Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Năng T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Về hình phạt: áp dụng khoản 1 điều 138 BLHS, điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; điều 33 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo T từ 8 tháng đến 12 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 15/6/2017
Về trách nhiệm dân sự và vật chứng: Không đề câp giải quyết.
Bị cáo không tham gia tranh luận với Đại diện Viện kiểm sát mà chỉ đề nghị
Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên và bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở để kết luận: khoảng 15 giờ ngày 11/6/2017, tại cửa hàng sim số đẹp Viettel ở số 24, đường L, thị trấn L, huyện T, tỉnh Bắc Ninh. Lợi dụng sơ hở của chị Đỗ Thị T, bị cáo T đã có hành vi lén lút trộm cắp chiếc xe máy Honda Wave anpha màu xanh, BKS 99H2-6561 trị giá 5.000.000đ. Như vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 138 BLHS. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ mà còn gây hoang mang, lo lắng cho người có tài sản, gây bất bình trong quần chúng nhân dân và dư luận xấu trong xã hội. Do vậy, cần phải áp dụng một hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo mới có tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung trong nhân dân.
Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy: Bị cáo là đối tượng sử dụng ma túy từ nhiều năm nay và có nhân thân xấu đã nhiều lần bị các Tòa án xét xử, cơ quan hành chính nhà nước xử lý về hành vi vi phạm pháp luật. Đối với những lần kết án trên, bị cáo đã chấp hành xong toàn bộ các bản án. Do đó, tính đến ngày xét xử bị cáo đương nhiên được xóa án tích, nhưng HĐXX xem xét, đánh giá về nhân thân khi lượng hình đối với bị cáo. Tại cơ quan điều tra, cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, ngoài ra, sau khi hành vi phạm tội bị phát hiện, được sự tác động của gia đình, nên bị cáo đã đi lấy lại xe mang về trả cho người bị hại và người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do đó, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p khoản 1 và khoản 2 điều 46 BLHS. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Từ những phân tích, đánh giá nêu trên, xét thấy bị cáo đã nhiều lần bị các Tòa án xét xử, cơ quan quản lý hành chính áp dụng các hình thức xử lý hành chính, nhưng bị cáo không chịu cải tạo, tu dưỡng mà lại tiếp tục phạm tội điều đó thể hiện thái độ coi thường pháp luật nên đối với lần phạm tội này, cần phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội.
Về hình phạt bổ sung: xét hậu quả của hành vi phạm tội gây ra không lớn, hơn nữa bị cáo là đối tượng sử dụng ma túy, không có việc làm ổn định, không có T nhập, nên HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về trách nhiệm dân sự và vật chứng: tài sản bị trộm cắp đã được T hồi trả lại cho người bị hại theo đúng quy định của pháp luật nên không xem xét giải quyết.
Liên quan trong vụ án có anh Nguyễn Hồng Ph đã nhận chiếc xe máy mà bị cáo trộm cắp đặt làm tin để vay tiền, khi giao dịch anh không biết đó là tài sản do bị cáo trộm cắp mà có nên cơ quan điều tra không đề cập xử lý mà giáo dục, nhắc nhở là phù hợp.
Đối với người thanh niên bán ma túy cho bị cáo ở khu vực phường Đ, thị xã T, cơ quan điều tra Công an huyện Tiên Du đã tiến hành xác minh nhưng chưa làm rõ được nên đã có công văn phối hợp với Công an thị xã Từ Sơn để giải quyết là phù hợp với quy định của pháp luật.
Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của bị cáo, do mới chỉ có lời khai của bị cáo mà không có tài liệu, chứng cứ để chứng minh nên cơ quan điều tra chưa đủ căn cứ để xử lý nên đã giáo dục, nhắc nhở là phù hợp.
Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Năng T phạm tội “Trộm cắp tài sản”
2. Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 33 BLHS. Điều 99; Điều 228 Bộ luật Tố tụng Hình sự. Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Năng T 10 (Mười) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 15/6/2017.
Tạm giam bị cáo 45 ngày, kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.
3. Về án phí: bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hợp lệ./.
Bản án 121/2017/HSST ngày 15/09/2017 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 121/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tiên Du - Bắc Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/09/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về