Bản án 120/2021/HS-ST ngày 08/06/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ H, TỈNH THỪA THIÊN H

BẢN ÁN 120/2021/HS-ST NGÀY 08/06/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 08 tháng 6 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 99/2021/TLST-HS ngày 26 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 102/2021/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo:

Đỗ Văn M (tên gọi khác: Win), sinh ngày 27 tháng 10 năm 2003 tại tỉnh Thừa Thiên H. Nơi cư trú: 67 (số cũ 36A) đường Y, phường T, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên H; nghề nghiệp: Phụ xe; trình độ học vấn: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Đỗ Văn M1 và bà Ngô Thị L; chưa có vợ, con; tiền án: Không, tiền sự: Không; bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “ Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Có mặt tại phiên tòa.

- Người đại diện hợp pháp cho bị cáo M:

+ Ông Đỗ Văn M1, sinh năm 1981 (cha ruột bị cáo); Địa chỉ: 67 (số cũ 36A) đường Y, phường T, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên H.Vắng mặt.

+ Bà Ngô Thị L, sinh năm 1979 (mẹ ruột bị cáo); Địa chỉ: Thôn Lang Xá Cồn, xã Thủy Thanh, thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên H. Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo M: Ông Trần Phước Hải - Trợ giúp viên Pháp lý Trung tâm Trợ giúp pháp lý tỉnh Thừa Thiên H. Có mặt.

- Bị hại:

Ông T1, sinh năm 1989; Địa chỉ: Số 8/1 Kiệt 15 đường Thạch Hãn, phường T, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên H. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 23 giờ ngày 03/11/2020, sau khi đi chơi, Đỗ Văn M đi bộ về ngang ngã 4 đường Thạch Hãn - Trần Nguyên Đán thuộc phường T, thành phố H thì nhìn thấy xe ô tô biển số 75A-166.53 của anh T1 đang đỗ. Lúc này anh Thiện nằm ngủ trong xe ở ghế tài xế, cửa kính để hở, bên ghế trước bên trái để 01 máy tính bảng Ipad nhãn hiệu Apple. M nảy sinh ý định chiếm đoạt nên thò tay qua cửa lấy trộm máy tính bảng rồi đem về nhà mình cất giấu. Một lát sau, anh Thiện thức dậy phát hiện mất tài sản nên trình báo Công an phường T.

Vật chứng tạm giữ: 01 máy tính bảng Ipad nhãn hiệu Apple màu vàng đã qua sử dụng, model A1893, số Seri: DMPXQ16TJMVR, kiểu máy: MRJN22A/A.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 254 ngày 01/12/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố H xác định tại thời điểm bị chiếm đoạt 01 máy tính bảng Ipad model A 1893 trị giá 4.500.000 đồng.

Xử lý vật chứng:

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H đã trả lại cho anh T1 chiếc máy tính bảng Ipad nhãn hiệu Apple. Anh Thiện không yêu cầu bồi thường gì thêm, đồng thời có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho Đỗ Văn M.

Tại phiên tòa, Đỗ Văn M đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Ngày 23/4/2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H đã ra Cáo trạng số 198/CT-VKS-HS truy tố Đỗ Văn M về tội “ Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Kết thúc phần xét hỏi, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H thực hiện quyền công tố tại phiên tòa sau khi phân tích, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm hành vi phạm tội bị cáo, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử:

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Đỗ Văn M phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Về hình phạt:

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h,i,s khoản 1; khoản 2 Điều 51, Điều 65, Điều 91, Điều 101 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, đề nghị xử phạt bị cáo Đỗ Văn M từ 5(năm) đến 6 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 12 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

3. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại T1 đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu gì thêm nên không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Tuyên buộc bị cáo Đỗ Văn M phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Người bào chữa cho bị cáo M trình bày: Nhất trí với tội danh, tình tiết giảm nhẹ cũng như hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề xuất, tuy nhiên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét hoàn cảnh gia đình bị cáo, do bị cáo là người chưa thành niên nên nhận thức pháp luật còn hạn chế, hành vi phạm tội chỉ là do tức thời chứ không có sự chuẩn bị trước. Do đó, ngoài các điều luật mà đại diện Viện kiểm sát đề xuẩt thì đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng thêm Điều 54 Bộ luật Hình sự xử phạt với mức thấp nhất của khung hình phạt để bị cáo có cơ hội sửa chữa bản thân thành công dân tốt cho xã hội.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H và không có ý kiến gì với bào chữa của Trợ giúp viên pháp lý. Bị cáo đã thấy được lỗi lầm, ăn năn hối cải nên đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên:

Trong quá trình thực hiện điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo, người đại diện hợp pháp cho bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2].Xét lời khai nhận tội của bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị hại cùng các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 23 giờ ngày 03/11/2020, tại khu vực ngã 4 đường Thạch Hãn-Trần Nguyên Đán thuộc phường T, thành phố H, Đỗ Văn M đã lén lút chiếm đoạt của anh T1 01 máy tính bảng Ipad nhãn hiệu Apple. Theo kết luận của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự thành phố H, giá trị của 01 máy tính bảng Ipad nhãn hiệu Apple tại thời điểm bị chiếm đoạt có trị giá 4.500.000 đồng.

Hành vi nêu trên của bị cáo Đỗ Văn M đã phạm vào tội “ Trộm cắp tài sản” quy định tại Khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015. Như vậy, bản cáo trạng số 198/CT-VKS-HS ngày 23/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố H đã truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất phạm tội của bị cáo: Bị cáo Đỗ Văn M là người có năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, xâm phạm quyền sở hữu của người khác được pháp luật bảo vệ nhưng vẫn cố tình thực hiện tội phạm.

[4].Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phạm vào tình tiết tăng nặng nào.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa ngày hôm nay, bị cáo Đỗ Văn M thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị hại- anh T1 có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do đó bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm h,i s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[5] Về quyết định hình phạt:

Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đã phân tích ở trên, trên cơ cở khung hình phạt quy định, xét thấy bị cáo là người chưa thành niên, có nơi ở ổn định, bị cáo được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ nên xét không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mà cần áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự giao bị cáo cho chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú giám sát giáo dục bị cáo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H tại phiên tòa là có cơ sở.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, thu nhập không ổn định. Vì vậy, không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo M.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại đầy đủ tài sản, không có yêu cầu bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về án phí: Buộc bị cáo Đỗ Văn M phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm h,i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65; Điều 91, Điều 101 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

1.Tuyên bố bị cáo Đỗ Văn M (tức Win) phạm tội Trộm cắp tài sản.

Xử phạt bị cáo Đỗ Văn M 04 (bốn) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 12 (mười hai) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo Đỗ Văn M cho Ủy ban nhân dân phường T, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên H giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của Luật Thi hành án hình sự.Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2.Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Đỗ Văn M phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

3. Án xử sơ thẩm công khai. Bị cáo, người đại diện hợp pháp cho bị cáo, người bào chữa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

157
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 120/2021/HS-ST ngày 08/06/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:120/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Huế - Thừa Thiên Huế
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;