Bản án 120/2020/HNGĐ-ST ngày 21/09/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 120/2020/HNGĐ-ST NGÀY 21/09/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 21 tháng 9 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 489/2020/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 6 năm 2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 133/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 12 tháng 8 năm 2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Vũ Thị H, sinh năm 1980; thường trú: Thôn 5, xã Oi, huyện T, tỉnh Đ; tạm trú: Số 10/29B, khu phố Đông C, phường H, thành phố A, tỉnh D. Có đơn xin giải quyết vắng mặt.

2. Bị đơn: A Ngô Huy H1, sinh năm 1981; thường trú: Số 43/32, đường Trần Thị Dương, khu phố Đông C, phường H, thành phố A, tỉnh D; tạm trú: Số 10/29B, khu phố Đông C, phường H, thành phố A, tỉnh D. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 21/5/2020, đơn xin thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện ngày 14/7/2020, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Vũ Thị H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Sau một thời gian tìm hiểu thì chị Vũ Thị H và A Ngô Huy H1 tự nguyện về sống chung từ năm 2007. Vợ chồng có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Oi, huyện T, tỉnh Đ theo Giấy chứng nhận kết hôn số 12, quyển số 01 ngày 01/4/2007.

Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống tại: Số 10/29B, khu phố Đông C, phường H, thành phố A, tỉnh D. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do A H1 có quan hệ bất chính với người phụ nữ khác, vì muốn giữ gìn gia đình, sợ các con bị tổn thương nên chị H đã tha thứ nhưng chỉ được một thời gian ngắn A H1 lại tiếp tục qua lại với người phụ nữ khác, chị H cố gắng chịu đựng mong A H1 thay đổi chăm lo cho vợ con nhưng A H1 vẫn không thay đổi. Chị xác định không còn tình cảm, lòng tin hay sự tôn trọng dành cho A H1 nữa. Vợ chồng hiện không còn quan tâm, chăm sóc nhau, mạnh ai nấy sống, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu ly hôn với A H1.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên Ngô Vũ Ngọc A, sinh ngày 24/10/2007 và Ngô Vũ Minh H2, sinh ngày 29/10/2012. Khi ly hôn chị H yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung và không yêu cầu A H1 có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Chị Vũ Thị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Nghĩa vụ chung về tài sản (nợ chung): Chị Vũ Thị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Đối với bị đơn anh Ngô Huy H1: Tòa án đã tống đạt văn bản tố tụng yêu cầu bị đơn có ý kiến đối với yêu cầu của nguyên đơn, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải vào ngày 31/7/2020 nhưng bị đơn vắng mặt không có lý do. Nguyên đơn có đơn đề nghị không tiến hành hòa giải, do vậy vụ án không tiến hành hòa giải được theo quy định tại Điều 207 Bộ luật Tố tụng dân sự. Tòa án đã tống đạt văn bản tố tụng yêu cầu bị đơn tham gia phiên tòa vào các ngày 01/9/2020 và 21/9/2020 nhưng bị đơn vắng mặt không có lý do. Việc giải quyết yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được xem xét trên cơ sở chứng cứ do nguyên đơn cung cấp và do Tòa án thu thập.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa: Quá trình tố tụng, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa, nguyên đơn đã chấp hành và tuân theo pháp luật đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về sự vắng mặt của đương sự: Nguyên đơn có yêu cầu giải quyết vắng mặt, bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt đến lần thứ hai không có lý do nên Tòa án căn cứ vào Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt các đương sự là đúng quy định.

Về nội dung vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận các yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát, Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt, bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa vào ngày 01/9/2020 và 21/9/2020 nhưng vắng mặt không có lý do, căn cứ Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

[2] Về nội dung: Chị Vũ Thị H và anh Ngô Huy H1 là vợ chồng có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã O, huyện T, tỉnh Đ theo Giấy chứng nhận kết hôn số 12, quyển số 01 ngày 01/4/2007 nên là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Chị H xác định vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh H1 có quan hệ bất chính với người phụ nữ khác, vì muốn giữ gìn gia đình, sợ các con bị tổn thương nên chị H đã nhiều lần tha thứ cho A H1 cơ hội thay đổi chăm lo cho vợ con nhưng A H1 vẫn không thay đổi. Vợ chồng hiện không còn quan tâm, chăm sóc nhau, mạnh ai nấy sống, mục đích hôn nhân không đạt được. Tòa án đã xác minh tình trạng hôn nhân tại Hội liên hiệp phụ nữ phường Tân Đông Hiệp nhưng Hội phụ nữ không biết nguyên nhân các mâu thuẫn vợ chồng. Quá trình tố tụng, Tòa án đã triệu tập A H1 đến Tòa án để hòa giải hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng A H1 không đến, đồng thời chị H có đơn từ chối hòa giải. Căn cứ vào lời khai của nguyên đơn có cơ sở xác định trong cuộc sống vợ chồng có nhiều mâu thuẫn, tình trạng đã trầm trọng và cả hai đều không muốn hàn gắn. Vì vậy, yêu cầu ly hôn của chị H là có cơ sở chấp nhận theo quy định tại Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Chị H có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Ngô Vũ Ngọc A, sinh ngày 24/10/2007 và Ngô Vũ Minh H2, sinh ngày 29/10/2012. Khi giải quyết việc ly hôn, Tòa án cần xem xét đến sự phát triển của con chưa thành niên để quyết định việc giao con cho cha hay mẹ trực tiếp nuôi dưỡng. Xét thấy, cháu A có nguyện vọng được ở với chị H, cháu H2 tuy có nguyện vọng được ở với A H1 nhưng xét từ trước đến nay chung sống với chị H, được chị H chăm sóc, nuôi dưỡng tốt, quá trình tố tụng A H1 không có ý kiến gì về việc chị H yêu cầu được nuôi dưỡng. Căn cứ vào Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án giao con chung cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng. Ghi nhận sự tự nguyện của chị H về việc không yêu cầu A H1 có nghĩa vụ cấp dưỡng.

[4] Tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản (nợ chung): Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[5] Ý kiến của Viện kiểm sát phù hợp với quan điểm của Tòa án nên chấp nhận.

[6] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Vũ Thị H phải chịu án phí ly hôn theo quy định tại Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và Điểm a, khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 147, Điều 228, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Căn cứ vào các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 và 84 của Luật Hôn nhân và gia đình.

Căn cứ Điểm a, khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Vũ Thị H về tranh chấp ly hôn, nuôi con đối với bị đơn anh Ngô Huy H1.

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Vũ Thị H được ly hôn với anh Ngô Huy H1 (Theo Giấy chứng nhận kết hôn số 12, quyển số 01 ngày 01/4/2007 do Ủy ban nhân dân xã Oi, huyện T, tỉnh Đ cấp).

- Về con chung: Anh Ngô Huy H1 giao con chung tên Ngô Vũ Ngọc A, sinh ngày 24/10/2007 và Ngô Vũ Minh H2, sinh ngày 29/10/2012 cho chị Vũ Thị H trực tiếp nuôi dưỡng. Ghi nhận sự tự nguyện của chị H về việc không yêu cầu anh H1 có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

- Tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản (nợ chung): Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Án phí dân sự sơ thẩm: Chị Vũ Thị H phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí ly hôn, được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0040652 ngày 03/6/2020 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

3. Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 120/2020/HNGĐ-ST ngày 21/09/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:120/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;