Bản án 120/2020/HNGĐ-ST ngày 20/07/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 120/2020/HNGĐ-ST NGÀY 20/07/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 20 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 207/2020/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 3 năm 2020 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 133/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 01 tháng 7 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị L, sinh năm 1997; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn 6, xã T, huyện N, thành phố Hải Phòng; chỗ ở hiện nay: Thôn C, xã L, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng; vắng mặt và có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt.

- Bị đơn: Anh H, sinh năm 1992; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn 6, xã T, huyện N, thành phố Hải Phòng. Hiện nay đang chấp hành án phạt tù tại đội 6 phân trại số 3 Trại giam V thuộc huyện X, tỉnh Thanh Hóa; vắng mặt và có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 25 tháng 02 năm 2020 và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn là chị L trình bày:

Chị kết hôn với anh H vào năm 2016 trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện N, thành phố Hải Phòng. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại thôn 6, xã T, huyện N, thành phố Hải Phòng. Quá trình vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc đến tháng 01 năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do anh H nghiện ma túy, không chịu khó lao động làm ăn. Anh H phạm tội Cướp giật tài sản bị Tòa án xử phạt 03 năm tù và hiện nay đang chấp hành án phạt tù tại đội 6 phân trại số 3 Trại giam V thuộc huyện X, tỉnh Thanh Hóa nên vợ chồng đã sống ly thân nhau từ tháng 01 năm 2019 đến nay. Nay chị L khẳng định tình cảm vợ chồng giữa chị và anh H không còn nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh H.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên B, sinh ngày 11 tháng 8 năm 2017. Hiện nay chị đang trực tiếp nuôi con chung tên B, sinh ngày 11 tháng 8 năm 2017. Khi ly hôn chị yêu cầu Tòa án giải quyết xin được trực tiếp nuôi con chung tên B, sinh ngày 11 tháng 8 năm 2017. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị L không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Vợ chồng không có tài sản chung, không vay ai và không cho ai vay nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 27 tháng 6 năm 2020 bị đơn là anh H trình bày:

Anh và chị L kết hôn vào năm 2016 trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại thôn 6, xã T, huyện N, thành phố Hải Phòng. Quá trình vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình vợ chồng không hòa hợp và do anh có hành vi vi phạm pháp luật đang chấp hành án tại Trại giam V, tỉnh Thanh Hóa nên vợ chồng có sự xa cách về mặt tình cảm. Nay chị L yêu cầu Tòa án giải quyết xin ly hôn anh, anh đồng ý ly hôn với chị L.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên B, sinh ngày 11 tháng 8 năm 2017. Khi ly hôn anh đồng ý để chị L nuôi con chung tên B, sinh ngày 11 tháng 8 năm 2017. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung để anh và chị L tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Vợ chồng không có tài sản chung, không vay nợ ai nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện N, thành phố Hải Phòng phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và ý kiến về việc giải quyết vụ án. Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa, nguyên đơn là chị L và bị đơn là anh H trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 228, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là chị L. Về hôn nhân: Cho chị L được ly hôn anh H. Về con chung: Giao con chung tên B, sinh ngày 11 tháng 8 năm 2017 cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị L và anh H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét giải quyết. Về tài sản chung và vay nợ chung không có nên không xem xét giải quyết. Về án phí: Chị L phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên toà, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn là chị L và bị đơn là anh H vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đơn đề nghị Toà án xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 1 Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn là chị L và bị đơn là anh H.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Xét quan hệ hôn nhân giữa chị L và anh H kết hôn với nhau năm 2016 trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện N, thành phố Hải Phòng vào ngày 15 tháng 12 năm 2016 là hôn nhân hợp pháp. Quá trình vợ chồng chị L và anh H chung sống hòa thuận hạnh phúc đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do anh H nghiện ma túy, không chịu khó lao động làm ăn. Anh H phạm tội Cướp giật tài sản bị Tòa án xử phạt 03 năm tù và đang chấp hành án phạt tù tại đội 6 phân trại số 3 Trại giam V thuộc huyện X, tỉnh Thanh Hóa nên vợ chồng đã sống ly thân nhau từ tháng 01 năm 2019 đến nay. Nay chị L khẳng định tình cảm vợ chồng giữa chị và anh H không còn, chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh H, anh H đồng ý ly hôn theo yêu cầu của chị L. Do anh H đang chấp hành án phạt tù tại Trại giam V thuộc huyện X, tỉnh Thanh Hóa nên Tòa án không tiến hành hòa giải được.

Tài liệu xác minh có trong hồ sơ vụ án thể hiện mâu thuẫn vợ chồng giữa chị L và anh H do anh H nghiện ma túy, không chịu khó lao động làm ăn, phạm tội Cướp giật tài sản và đang chấp hành án phạt tù tại Trại giam V thuộc huyện X, tỉnh Thanh Hóa. Như vậy thể hiện hôn nhân giữa chị L và anh H đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị L về việc xin ly hôn anh H, cho chị L được ly hôn anh H.

[3] Về con chung: Chị L và anh H có 01 con chung tên B, sinh ngày 11 tháng 8 năm 2017. Khi ly hôn chị L yêu cầu Tòa án giải quyết giao con chung tên B, sinh ngày 11 tháng 8 năm 2017 cho chị được trực tiếp nuôi dưỡng, anh H đồng ý để cho chị L trực tiếp nuôi con chung tên B, sinh ngày 11 tháng 8 năm 2017. Xét hiện nay con chung B dưới 36 tháng tuổi và từ khi vợ chồng chị L, anh H sống ly thân nhau từ năm 2019 đến nay chị L vẫn trực tiếp nuôi con chung, mặt khác anh H đang chấp hành án phạt tù nên không có điều kiện để nuôi con. Vì vậy căn cứ Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị L, giao con chung tên B, sinh ngày 11 tháng 8 năm 2017 cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị L không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung. Anh H đề nghị để vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] Về tài sản chung: Chị L và anh H thống nhất vợ chồng không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chị L phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 228, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử :

1. Cho chị L được ly hôn anh H.

2. Về con chung: Giao con chung tên B, sinh ngày 11 tháng 8 năm 2017 cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét giải quyết.

3. Về án phí: Chị L phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000709 ngày 10 tháng 3 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện N, thành phố Hải Phòng. Chị L đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

188
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 120/2020/HNGĐ-ST ngày 20/07/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:120/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;