TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 1201/2019/DS-PT NGÀY 18/12/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN VÀ THẾ CHẤP
Ngày 18 tháng 12 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 438/2019/TLPT-DS ngày 23 tháng 9 năm 2019 về việc “Tranh chấp Hợp đồng vay tài sản và thế chấp”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 347/2019/DS-ST ngày 05 tháng 8 năm 2019 của Tòa án nhân dân Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo ngày 19/8/2019 và Quyết định kháng nghị của Viện Kiểm sát nhân dân quận Bình Tân ngày 20/8/2019.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 5100/2019/QĐPT-DS ngày 24 tháng 10 năm 2019, Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số 9591/2019/QĐ-PT ngày 11/11/2019, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Thái Thị L, sinh năm 1967 (có mặt) Địa chỉ: đường M, khu phố S, phường Đ, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền của bà Thái Thị L là ông Hồ Minh T, sinh năm 1974 (có mặt) Địa chỉ: đường V, Phường H, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.
Bị đơn: Bà Võ Thị Thanh N, sinh năm 1965 Địa chỉ: đường T, Phường T, Quận S, Thành phố Hồ Chí Minh.
Địa chỉ tạm trú: đường T, phường Đ, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh. Người đại diện theo ủy quyền của bà Võ Thị Thanh N là ông Võ Hoàng H, sinh năm 1975 (có mặt) Minh.
Địa chỉ thường trú: đường S, Phường M, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.Địa chỉ tạm trú: đường T, phường Đ, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1/ Ông Trần Quốc S, sinh năm 1960 (vắng mặt) Địa chỉ: đường T, phường Đ, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.
2/ Bà Trần Thị Thanh T, sinh năm 1992 (vắng mặt) Địa chỉ: đường T, phường Đ, quận B, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí 3/ Ông Ngũ Phối V, sinh năm 1960 (vắng mặt) Địa chỉ: đường T, phường Đ, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.
4/ Bà Trà Thị Mỹ L, sinh năm 1968 (vắng mặt) Địa chỉ: đường T, phường Đ, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.
5/ Ông Trà Văn H, sinh năm 1941 (vắng mặt) Địa chỉ: đường T, phường Đ, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.
6/ Ông Ngũ Khải T, sinh năm 1989 (vắng mặt) Địa chỉ: đường T, phường Đ, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.
7/ Trẻ Ngũ Ngọc T, sinh năm 2004 Địa chỉ: đường T, phường Đ, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm bà Trà Thị Mỹ L, ông Trà Văn H, ông Ngũ Khải T, đồng thời là người đại diện hợp pháp của trẻ Ngũ Ngọc T là ông Ngũ Phối V. (vắng mặt)
8/ Ông Võ Phú Q, sinh năm 1970 (có mặt) Địa chỉ: đường M, khu phố S, phường Đ, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.
NỘI DUNG VỤ ÁN
[1]. Theo đơn khởi kiện ngày 28/9/2017, đơn khởi kiện bổ sung ngày 01/4/2019. Người đại diện theo ủy quyền là ông Hồ Minh T có ý kiến trình bày và các yêu cầu sau:
Ngày 06/3/2017, tại Văn phòng Công chứng Bình Tân, bà Thái Thị L có giao kết với bà Võ Thị Thanh N 01 Hợp đồng vay tiền và thế chấp quyền sử dụng đất (có tài sản gắn liền với đất), số công chứng 004310, quyển số 03TP/CC-SCC/HĐGD với các nội dung chính là:
Bà Thái Thị L cho bà Võ Thị Thanh N vay số tiền 300.000.000 đồng (Ba trăm triệu đồng) trong thời hạn 06 tháng, từ ngày 06/3/2017 đến ngày 06/9/2017, lãi suất là 0,8% mỗi tháng; bà N có nghĩa vụ thanh toán tiền lãi nêu trên cho bà L vào ngày 06 dương lịch hàng tháng.
Để bảo đảm cho khoản vay trên, bà N đồng ý thế chấp cho bà L quyền sử dụng đất có tài sản gắn liền với đất là phần diện tích nhà và đất tọa lạc tại địa chỉ đường T, phường Đ, quận B, thành phố Hồ Chí Minh do bà N đứng tên sở hữu theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AĐ134217 do Ủy ban nhân dân quận B, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 05/7/2006, cập nhật biến động ngày 16/11/2009, số vào sổ cấp Giấy chứng nhận H03096/Bình Trị Đông. Đồng thời, bà N cũng đồng ý giao toàn bộ bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên cho bà L tạm giữ sau khi đã nhận đủ số tiền 300.000.000 đồng (Ba trăm triệu đồng).
Hết thời hạn vay, nếu bà N không thanh toán đủ nợ gốc, lãi và hai bên không có thỏa thuận nào khác thì bà L có quyền yêu cầu các cơ quan chức năng làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất (có tài sản gắn liền với đất) nêu trên để đảm bảo quyền lợi theo quy định của hợp đồng.
Trong thời hạn vay 06 tháng theo quy định của hợp đồng và từ ngày 06/9/2017 đến khi Tòa án nhân dân quận B mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải vào ngày 22/4/2019 thì bà L vẫn chưa nhận được khoản tiền gốc và lãi nào từ bà N.
Do đó, bà L yêu cầu bà N phải hoàn trả số tiền nợ gốc đã vay là 300.000.000 đồng và có yêu cầu khởi kiện bổ sung bà N phải thanh toán số tiền lãi 0,8%/tháng như đã ký kết tính từ ngày 28/9/2017 cho đến ngày vụ án được đưa ra xét xử là 43.200.000 đồng, tổng cộng là 343.200.000 đồng, trả một lần ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật. Ngay sau khi bà N thanh toán toàn bộ số tiền nêu trên, bà sẽ trả cho bà N toàn bộ bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở mà bà đang tạm giữ.
[1.1]. Theo văn bản trình bày ý kiến ngày 14/11/2017, đơn phản tố ngày 10/3/2018 thì Bị đơn bà Võ Thị Thanh N có ông Võ Hoàng H là Người đại diện theo ủy quyền trình bày các ý kiến và yêu cầu như sau:
Bà Võ Thị Thanh N xác nhận có giao kết hợp đồng và vay của bà Thái Thị L số tiền 300.000.000 đồng, với thời hạn 06 tháng, lãi suất là 0,8% mỗi tháng tại Văn phòng Công chứng Bình Tân như bà L đã trình bày. Đồng thời, bà cũng xác nhận có giao cho bà L tạm giữ bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AĐ134217 do Ủy ban nhân dân quận B, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 05/7/2006, cập nhật biến động ngày 16/11/2009, số vào sổ cấp Giấy chứng nhận H03096/Bình Trị Đông do bà đứng tên sở hữu.
Bà N xác nhận trong quá trình vay đã có thanh toán một phần lãi vay cho bà L theo như thỏa thuận trong hợp đồng và theo quy định của pháp luật thì bà L không có chức năng nhận thế chấp quyền sử dụng đất có tài sản gắn liền với đất nên bà L phải trả lại cho bà bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở nêu trên.
Bà Võ Thị Thanh N sẽ trả dần cho bà Thái Thị L mỗi tháng là 5.000.000 đồng cùng tiền lãi tính theo lãi suất 0,8% mỗi tháng như đã thỏa thuận cho đến khi hết nợ.
[1.3]. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Ngũ Phối V, bà Trà Thị Mỹ L, ông Trà Văn H, ông Ngũ Khải T, trẻ Ngũ Ngọc T (có ông V và bà bà L là người đại diện hợp pháp) có ý kiến trình bày và các yêu cầu sau:
Ngày 13/8/2009, ông Ngũ Phối V và bà Trà Thị Mỹ L có nhận chuyển nhượng từ bà Võ Thị Thanh N ½ (một nửa) phần diện tích đất ở đô thị có tài sản gắn liền với đất là nhà ở theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AĐ134217 do Ủy ban nhân dân quận B, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 05/7/2006, cập nhật biến động ngày 16/11/2009, số vào sổ cấp Giấy chứng nhận H03096/Bình Trị Đông do bà N đứng tên sở hữu với giá là 300.000.000 đồng, đôi bên đã giao nhận đủ tiền. Tuy nhiên, việc chuyển nhượng này chỉ làm hợp đồng mua bán không có công chứng, chứng thực của cơ quan có thẩm quyền. Sau khi mua bán, ông V cùng gia đình là bà L, ông H, ông T và trẻ T cùng đến cư trú tại địa chỉ đường T, phường Đ, quận B. Việc tranh chấp giữa bà Thái Thị L và bà Võ Thị Thanh N, ông không có ý kiến và yêu cầu gì, đề nghị Tòa án giải quyết đúng pháp luật.
[1.4]. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Võ Phú Q có ý kiến trình bày và yêu cầu sau:
Ông xác nhận có biết việc vợ ông là bà L cho bà N vay 300.000.000 đồng, nội dung hợp đồng vay giống như các bên đã trình bày. Số tiền nêu trên là tài sản riêng của bà L, không phải là tài sản chung của vợ chồng ông. Đề nghị Tòa án giải quyết vụ án đúng pháp luật.
[1.5]. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm ông Trần Quốc S, bà Trần Thị Thanh T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng cùng vắng mặt không có lý do, không có người đại diện theo ủy quyền tham gia tố tụng trong quá trình Tòa án chuẩn bị xét xử sơ thẩm và không có ý kiến trình bày, không có yêu cầu nào trong vụ án.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm tuyên xử:
1/ Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn Thái Thị L.
Buộc bà Võ Thị Thanh N thanh toán cho bà Thái Thị L số tiền 343.800.000 đồng (Ba trăm bốn mươi ba triệu tám trăm ngàn đồng), trả một lần ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật và kể từ ngày bà Thái Thị L có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bà N chưa thanh toán hết số tiền nêu trên thì hàng tháng bà N còn phải chịu tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, 468 Bộ luật Dân sự 2015 tương ứng với thời gian và khoản tiền chưa thi hành án.
Buộc bà Thái Thị L giao trả cho bà Võ Thị Thanh N bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AĐ134217 do Ủy ban nhân dân quận B, thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 05/7/2006, cập nhật biến động ngày 16/11/2009, số vào sổ cấp Giấy chứng nhận H03096/Bình Trị Đông ngay sau khi bà N thanh toán hết toàn bộ số tiền 343.800.000 đồng (Ba trăm bốn mươi ba triệu tám trăm ngàn đồng).
2/ Sau khi bà Võ Thị Thanh N thanh toán hết cho bà Thái Thị L số tiền 343.800.000 đồng (Ba trăm bốn mươi ba triệu tám trăm ngàn đồng) và tiền lãi do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền (nếu có) và bà Thái Thị L giao trả cho bà Võ Thị Thanh N bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AĐ134217 do Ủy ban nhân dân quận B, thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 05/7/2006, cập nhật biến động ngày 16/11/2009, số vào sổ cấp Giấy chứng nhận H03096/Bình Trị Đông thì Hợp đồng vay tiền và thế chấp quyền sử dụng đất (có tài sản gắn liền với đất), số công chứng 004310, quyển số 03TP/CC-SCC/HĐGD đương nhiên hết hiệu lực và được hủy bỏ.
Ngoài ra Bản án sơ thẩm còn tuyên án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.
Tại phiên tòa hôm nay đại diện nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả tổng số tiền là gốc 300.000.000 đồng, tiền lãi là 334.800.000 đồng đã trừ thêm 9.000.000 đồng tiền lãi do bị đơn yêu cầu.
Đại diện bị đơn yêu cầu được trừ đi 9.000.000 đồng tiền lãi.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh nhận xét việc Thẩm phán chủ tọa, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng đủ thủ tục tố tụng được qui định tại Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Về nội dung đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết. Không chấp nhận Kháng cáo của bà Võ Thị Thanh N.
Chấp nhận kháng nghị số 12/QĐKNPT-VKS DS ngày 20/8/2019.
Sửa bản bản án số 347/2019/DS-ST ngày 25/8/2019 của Tòa án nhân dân quận B.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về nội dung tranh chấp:
Qua lời khai nhận của bà Thái Thị L, bà Võ Thị Thanh N và ông Võ Phú Q cùng các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập được trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở khẳng định:
Ngày 06/3/2017, tại Văn phòng Công chứng Bình Tân, bà Thái Thị L có giao kết với bà Võ Thị Thanh N 01 Hợp đồng vay tiền và thế chấp quyền sử dụng đất (có tài sản gắn liền với đất), số công chứng 004310, quyển số 03TP/CC-SCC/HĐGD với các nội dung chính là:
Bà Thái Thị L cho bà Võ Thị Thanh N vay số tiền 300.000.000 đồng, trong thời hạn 06 tháng, từ ngày 06/3/2017 đến ngày 06/9/2017, lãi suất là 0,8% mỗi tháng; bà N có nghĩa vụ thanh toán tiền lãi nêu trên cho bà L vào ngày 06 dương lịch hàng tháng.
Để bảo đảm cho khoản vay trên, bà N đồng ý thế chấp cho bà L quyền sử dụng đất có tài sản gắn liền với đất là phần diện tích nhà và đất tọa lạc tại địa chỉ đường T, phường Đ, quận B, thành phố Hồ Chí Minh do bà N đứng tên sở hữu theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AĐ134217 do Ủy ban nhân dân quận B, thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 05/7/2006, cập nhật biến động ngày 16/11/2009, số vào sổ cấp Giấy chứng nhận H03096/Bình Trị Đông. Đồng thời, bà N cũng đồng ý giao toàn bộ bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên cho bà L tạm giữ sau khi đã nhận đủ số tiền 300.000.000 đồng.
Hết thời hạn vay, nếu bà N không thanh toán đủ nợ gốc, lãi và hai bên không có thỏa thuận nào khác thì bà L có quyền yêu cầu các cơ quan chức năng làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất (có tài sản gắn liền với đất) nêu trên để đảm bảo quyền lợi theo quy định của hợp đồng.
Bà Thái Thị L, bà Võ Thị Thanh N và ông Võ Phú Q cùng xác nhận việc giao kết hợp đồng vay mượn nói trên là tài sản riêng và nợ riêng của hai bà L, N; không liên quan đến cá nhân nào khác.
Trong suốt thời hạn vay quy định trong hợp đồng và cho đến khi Tòa án mở phiên tòa xét xử sơ thẩm thì bà L xác nhận chỉ có nhận 9.000.000 đồng tiền lãi từ bà N, ngoài ra bà không nhận thêm bất kỳ khoản lãi và tiền gốc nào khác. Đồng thời, bà N cũng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh cho thấy đã trả cho bà L số tiền nào khác ngoài số tiền trên.
[2] Qua lời khai nhận của ông Ngũ Phối V, bà Trà Thị Mỹ L, ông Trà Văn H, ông Ngũ Khải T, trẻ Ngũ Ngọc Th và bà Võ Thị Thanh N cùng các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở khẳng định:
Ngày 13/8/2009, ông Ngũ Phối V và bà Trà Thị Mỹ L có nhận chuyển nhượng từ bà Võ Thị Thanh N ½ (một nửa) phần diện tích đất ở đô thị có tài sản gắn liền với đất là nhà ở theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AĐ134217 do Ủy ban nhân dân quận B, thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 05/7/2006, cập nhật biến động ngày 16/11/2009, số vào sổ cấp Giấy chứng nhận H03096/Bình Trị Đông do bà N đứng tên sở hữu với giá là 300.000.000 đồng, đôi bên đã giao nhận đủ tiền. Tuy nhiên, việc chuyển nhượng này chỉ làm hợp đồng mua bán không có công chứng, chứng thực của cơ quan có thẩm quyền. Sau khi mua bán, ông V cùng gia đình là bà L, ông H, ông T và trẻ T cùng đến cư trú tại địa chỉ đường T, phường Đ, quận B.
[3] Về yêu cầu của các đương sự:
[3.1] Bà Thái Thị L yêu cầu sau: Bà yêu cầu bà N phải hoàn trả số tiền nợ gốc đã vay là 300.000.000 đồng và thanh toán số tiền lãi 0,8%/tháng như đã thỏa thuận tính từ ngày 28/9/2017 cho đến ngày vụ án được đưa ra xét xử là 22 tháng, tiền lãi là 52.8000.000 đồng (Năm mươi hai triệu tám trăm ngàn đồng). Bà L tự nguyện không tính lãi từ ngày 06/3/2017 đến ngày 28/9/2017. Sau khi trừ số tiền 9.000.000 đồng đã nhận, bà yêu cầu bà N trả tổng cộng số tiền 343.800.000 đồng. Ngay sau khi bà N thanh toán toàn bộ số tiền nêu trên, bà sẽ trả cho bà N toàn bộ bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà.
Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu của bà Thái Thị L là có cơ sở, phù hợp với quy định của pháp luật nên cần chấp nhận.
[3.2] Đối với yêu cầu bà N chỉ đồng ý trả dần cho bà L mỗi tháng 5.000.000 đồng cùng lãi suất 0.8% như đã thỏa thuận, và yêu cầu bà Liên giao trả lại bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở với lý do bà L không có chức năng và thẩm quyền nhận thế chấp các giấy tờ nêu trên. Tuy nhiên bà L không đồng ý, do đó không có cơ sở chấp nhận yêu cầu này của bị đơn.
Đối với yêu cầu kháng cáo của bị đơn xem xét phần lãi theo quy định của Ngân hàng: Xét hợp đồng ngày 6/3/2017 bà L cho bà N vay số tiền là 300.000.000 đồng thời hạn vay 6 tháng, kể từ ngày 6/3/2017 đến ngày 6/9/2017 ,lãi suất là 0,8% tháng hai bên thỏa thuận thanh toán tiền lãi vào ngày 6 dương lịch hàng tháng. Tại phiên tòa sơ thẩm bà L và bà N đều xác định đã thanh toán được 9.000.000 đồng tiền lãi, nay còn yêu cầu trả thêm số tiền lãi là 43.800.000 đồng. Xét hợp đồng vay tài sản có có thời hạn 6 tháng, từ ngày 5/3/2017 đến ngày 6/9/2017, hết thời hạn của hợp đồng bà N không thanh toán tiền nợ gốc, lãi đầy đủ cho bà L là vi phạm nghĩa vụ hợp đồng, tuy nhiên bà L không yêu cầu thanh toán tiền lãi từ ngày 6/3/2017 đến ngày 28/9/2017 nên được ghi nhận, nay bà L chỉ yêu cầu tiền lãi tính từ ngày 28/7/2017 đến ngày xét xử vụ án là 22 tháng theo lãi suất 0,8% với số tiền lãi là 52.800.000 đồng, xét thấy lãi suất 0.8% mà nguyên đơn yêu cầu là thấp hơn lãi suất phạt vi phạm hợp đồng nên yêu cầu của bà L yêu cầu lãi là 52.800.000 đồng, trừ 9.000.000 đồng tiền lãi đã nhận nay còn yêu cầu trả lãi là 43.800.000 đồng có cơ sở. Tại phiên tòa hôm nay hai bên thỏa thuận trừ thêm 9.000.000 đồng tiền lãi nghĩ nên ghi nhận.
[4]. Từ những phân tích và nhận định nêu Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu kháng cáo của bị đơn là không có cơ sở chấp nhận. Chấp nhận đề nghị của Đại diện Viện Kiểm sát sửa Bản án sơ thẩm xét xử có căn cứ, đúng pháp luật .
[5]. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Bà Võ Thị Thanh N có nghĩa vụ trả cho bà Thái Thị L số tiền 334.800.000 đồng nên phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 5% x 334.800.000 = 16.740.000 đồng.
Bà Thái Thị L không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm nên được hoàn lại các khoản tạm ứng án phí gồm 7.500.000 đồng [6]. Về án phí dân sự phúcthẩm: Do không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Nga, nên phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Khoản 2 điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a, c khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 161, Khoản 1 Điều 227, Điều 273 Bộ luật tố tụng Dân sự.
Căn cứ vào các Điều 357, 463, 466 và 468 Bộ luật Dân sự 2015.
Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn, Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn, chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát sửa Bản án sơ thẩm.
Tuyên xử :
[1]. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Thái Thị L. Buộc bà Võ Thị Thanh N thanh toán cho bà Thái Thị L số tiền 334.800.000 đồng (Ba trăm ba mươi bốn triệu, tám trăm ngàn đồng).
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền thi hành án theo mức lãi suất các bên thỏa thuận nhưng phải phù hợp với quy định của pháp luật.
[2]. Chấp nhận yêu cầu phản tố của bà Võ Thị Thanh N.
Buộc bà Thái Thị L giao trả cho bà Võ Thị Thanh N bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AĐ134217 do Ủy ban nhân dân quận B 16/11/2009, số vào sổ cấp Giấy chứng nhận H03096/Bình Trị Đông ngay sau khi bà N thanh toán hết toàn bộ số tiền 334.800.000 đồng (Ba trăm ba mươi bốn triệu, tám trăm ngàn đồng).
[3]. Sau khi bà Võ Thị Thanh N thanh toán hết cho bà Thái Thị L số tiền 334.800.000 đồng (Ba trăm ba mươi bốn triệu, tám trăm ngàn đồng), và tiền lãi do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền (nếu có) và bà Thái Thị L giao trả cho bà Võ Thị Thanh N bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AĐ134217 do Ủy ban nhân dân quận B, thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 05/7/2006, cập nhật biến động ngày 16/11/2009, số vào sổ cấp Giấy chứng nhận H03096/Bình Trị Đông thì Hợp đồng vay tiền và thế chấp quyền sử dụng đất (có tài sản gắn liền với đất), số công chứng 004310, quyển số 03TP/CC-SCC/HĐGD.Hủy bỏ hợp đồng vay tiền và thế chấp quyền sử dụng đất.
[4].Về án phí dân sự sơ thẩm:
Bà Võ Thị Thanh N phải chịu 16.740.000 đồng (Mười sáu triệu, bảy trăm bốn mươi ngàn đồng) nhưng được cấn trừ vào 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0008310 ngày 04/3/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự quận B, thành phố Hồ Chí Minh. Bà N phải nộp thêm số tiền 16.440.000 đồng (Mười sáu triệu, bảy trăm bốn mươi ngàn đồng).
Bà Thái Thị L được nhận lại các khoản tạm ứng án phí gồm 7.500.000 đồng (Bảy triệu, năm trăm ngàn, đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0001272 ngày 16/10/2017 và 1.080.000 đồng (Một triệu, không trăm, tám mươi ngàn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0015252 ngày 01/4/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự quận B, thành phố Hồ Chí Minh.
[5]. Án phí dân sự phúc thẩm: Bà Võ Thị Thanh N phải chịu số tiền là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn) đồng nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm ngàn) đồng theo biên lai thu số 0018834 ngày 19/8/2019 của Chi cục thi hành án dân sự, Thành phố Hồ Chí Minh.
[6]. Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Bản án 1201/2019/DS-PT ngày 18/12/2019 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản và thế chấp
Số hiệu: | 1201/2019/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 18/12/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về