TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 119/2021/HSST NGÀY 09/03/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 09 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 88/2021/HSST ngày 04 tháng 02 năm 2021 đối với bị cáo:
Lê Ngọc K (tên gọi khác: Không) sinh năm 1984, tại Thanh Hóa; Giới tính: Nam; Nơi cư trú: 68N, khu phố 12, phường A, thành phố B, tỉnh Đ; Nơi ở hiện nay: Như trên; Nghề nghiệp: Không; Chức vụ: Không; Trình độ văn hóa: 09/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lê Ngọc K1, sinh năm 1960 và bà Bùi Thị H, sinh năm 1962; Gia đình có 04 anh em bị cáo là con thứ nhất trong gia đình; Có vợ là Nguyễn Thanh T, sinh năm 1999 và có 01 con sinh năm 2019; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 20/10/2005, bị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Ngày 25/01/2007, bị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa xử phạt 01 năm 02 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản”; Ngày 30/9/2009, bị Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 07 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Bị cáo chấp hành xong bản án này vào ngày 05/8/2016. Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 09/10/2020, chuyển tạm giam theo Lệnh số 1353 ngày 16/10/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa. Hiện bị cáo đang giam giữ tại Trại nhà tạm giữ Công an thành phố Biên Hòa – Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Lê Ngọc K là người sử dụng trái phép chất ma túy tổng hợp (hàng đá). Khoảng 08 giờ ngày 09/10/2020, bị cáo K điều khiển xe mô tô biển số 54X9-5789 đến khu vực thuộc phường A, thành phố B, tỉnh Đ, mua của một người đàn ông tên H (không rõ lai lịch) 01 gói ma túy tổng hợp (hàng đá) với giá 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) để sử dụng. Đến khoảng 11 giờ 30 phút, cùng ngày, bị cáo K cất giấu gói ma túy trên vào túi quần bên phải của bị cáo đang mặc rồi đi đến đoạn đường thuộc tổ 9A2, khu phố M, phường P, thành phố B, tỉnh Đ thì bị lực lượng tuần tra Công an phường Phước Tân kiểm tra, phát hiện bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.
Vật chứng thu giữ gồm:
- 01 (một) gói nylon được hàn kín hai đầu bên trong chứa tinh thể màu trắng đã được niêm phong, có chữ ký của Lê Ngọc K và hình dấu mộc tròn của Công an phường Phước Tân;
- 01 (một) xe mô tô biển số 54X9-5789 do bị cáo sử dụng để mua ma túy. Quá trình điều tra, bị cáo khai xe mô tô trên do anh C (không rõ lai lịch) cho bị cáo (không giấy tờ). Kết quả xác minh xác định xe mô tô trên do Công ty D đứng tên đăng ký xe, sau đó được bán lại cho nhiều người, hiện chưa xác định được chủ sở hữu hiện tại. Do đó, Cơ quan điều tra tách ra tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý sau.
Tại bản kết luận giám định số 2406/KLGĐ-PC09 ngày 16/10/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận:
“Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 0,2559gam, loại: Methamphetamine”.
Tại cáo trạng số 129/CT-VKSBH ngày 03 tháng 02 năm 2021, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa truy tố bị cáo Lê Ngọc K, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa tham gia phiên tòa trình bày lời luận tội nêu tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo theo điều khoản và tội danh như đã nêu trên; đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo như sau: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Lê Ngọc K thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Bị cáo K không có tình tiết năng nặng trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, xét về nhân thân bị cáo K đã ba lần bị kết án nhưng không lấy đó làm bài bọc cho mình mà lại tiếp tục phạm tội thể hiện bị cáo là người coi thường pháp luật.
Đề nghị Hội đồng xét xử, xử phạt bị cáo Lê Ngọc K mức án từ 14 (Mười bốn) tháng đến 18 (Mười tám) tháng tù giam.
Tại phiên tòa, bị cáo K không có ý kiến bào chữa, tranh luận gì đối với lời luận tội của đại diện Viện Kiểm sát. Trong lời nói sau cùng bị cáo đã nhận thức hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Đối với hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa, Điều tra viên; Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.
[2] Về nội dung vụ án: Tại phiên tòa, bị cáo Lê Ngọc K khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Cụ thể, vào khoảng 11 giờ 30 phút ngày 09/10/2020, bị cáo K đi đến đoạn đường thuộc tổ 9A2, khu phố M, phường P, thành phố B, tỉnh Đ thì bị lực lượng tuần tra Công an phường Phước Tân kiểm tra, phát hiện bắt quả tang đang cất giấu gói ma túy để trong túi quần bên phải của bị cáo đang mặc. Bị cáo đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy có khối lượng là 0,2559gam, loại: Methamphetamine.
[3] Về tội danh: Xét thấy, lời khai của bị cáo K tại phiên tòa phù hợp với lời khai của người làm chứng, nội dung biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ căn cứ xác định hành vi của bị cáo Lê Ngọc K đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 như Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân thành phố Biên Hòa đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo K có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội của mình.
[4] Về tính chất, mức độ hành vi: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của nhà nước về các chất ma tuý, là nguyên nhân làm gia tăng những tệ nạn xã hội và tội phạm hình sự; gây tác hại cho sức khỏe và gây ảnh nghiêm trọng đến trật tự trị an tại địa phương. Bản thân bị cáo cũng đủ nhận thức và biết ma túy là chất gây nghiện có tác hại rất lớn cho người sử dụng và đối với xã hội, bị cáo cũng nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật. Bị cáo cũng đã ba lần bị kết án về hành vi vi phạm pháp luật nhưng không lấy đó làm bài học rút kinh nghiệm cho mình mà tiếp tục phạm tội thể hiện bị cáo đã bất chấp pháp luật và cố tình vi phạm. Nên cần phải có mức hình phạt nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục và có tác dụng răn đe, đấu tranh phòng ngừa chung.
[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Lê Ngọc K không có tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét thấy, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo K tỏ thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Với các tình tiết giảm nhẹ trên, Hội đồng xét xử sẽ cân nhắc, xem xét giảm nhẹ khi quyết định hình phạt đối với bị cáo để thể hiện tính khoan hồng của pháp luật.
[7] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo K tàng trữ trái phép chất ma tuý mục đích tàng trữ để sử dụng cho bản thân mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển trái phép chất ma túy. Bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, bản thân lại nghiện chất ma tuý, nên không có điều kiện để thi hành. Vì vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[8] Về xử lý vật chứng trong vụ án:
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
- Tịch thu tiêu hủy toàn bộ lượng ma túy của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa thu giữ sau giám định.
- Đối với 01 (một) xe mô tô biển số 54X9-5789 do bị cáo sử dụng để mua ma túy. Hiện chưa xác định được chủ sở hữu hiện tại. Do đó, Cơ quan điều tra tách ra tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý sau.
[9] Đối với đối tượng tên H (chưa rõ nhân thân, lai lịch) có hành vi bán ma túy cho bị cáo K, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý sau.
[10] Về án phí: Bị cáo Lê Ngọc K phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[11] Đối với phần trình bày và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa tại phiên tòa, xét thấy phù hợp với những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử sẽ xem xét khi quyết định về vụ án.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106, Điều 135, Điều 136, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lê Ngọc K phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Lê Ngọc K 14 (Mười bốn) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 09/10/2020.
3. Về xử lý vật chứng:
- Tịch thu tiêu hủy toàn bộ lượng ma túy của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa thu giữ sau giám định.
(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 05/02/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Biên Hòa).
4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Lê Ngọc K phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Lê Ngọc K có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 119/2021/HSST ngày 09/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 119/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 09/03/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về