Bản án 119/2017/HNGĐ-ST ngày 03/08/2017 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 119/2017/HNGĐ-ST NGÀY 03/08/2017 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 03 tháng 8 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới xét xử công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 163/2017/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 4 năm 2017 về việc tranh chấp “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 97/2017/QĐST - HNGĐ ngày 16 tháng 6 năm 2017 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1989. (Có mặt) Cư trú: Ấp L, xã A, huyện B, tỉnh Tiền Giang.

Bị đơn: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1985. (Vắng mặt)

Cư trú: Ấp T, xã M, huyện C, tỉnh An Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 07 tháng 4 năm 2017 và quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn Nguyễn Thị C trình bày:

Bà và ông T sống chung với nhau năm 2010, có đăng ký kết hôn, sống hạnh phúc đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn và ly thân đến nay. Nguyên nhân do tính tình không hợp, ông T không lo làm ăn, tính tình không hợp và ông T không quan tâm đến vợ con. Hiện nay tình cảm không còn, xin được ly hôn với ông T.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Nguyễn Ngọc Quỳnh N, sinh ngày 25/7/2011. Hiện cháu N đang sống với bà C. Khi ly hôn, bà C yêu cầu được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không có.

Về nợ chung: Không có.

Ông Nguyễn Văn T vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng với quy định của pháp luật.

Ý kiến về việc giải quyết vụ án:

Chị C xác định không còn tình cảm với anh T và anh T biết được việc chị C xin ly hôn nhưng không có ý kiến phản hồi, không tạo điều kiện cho nhau để hàn gắn hạnh phúc vợ chồng nên mục đích hôn nhân không đạt. Vì vậy, việc chị C yêu cầu ly hôn là phù hợp Điều 56 Luật hôn nhân gia đình năm 2014.

Về con chung: Có 01 con chung tên Nguyễn Ngọc Quỳnh N, sinh ngày 25/7/2011, hiện đang sống với chị C, yêu cầu được nuôi con, không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

Xét thấy, từ khi vợ chồng ly thân, cháu N sống với chị C vẫn phát triển bình thường về thể chất, tinh thần. Để ổn định cuộc sống cho cháu nghĩ nên để chị C tiếp tục chăm sóc, nuôi dạy cháu N. Do chị C không có yêu cầu cấp dưỡng nên không đề cập đến.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1]. Về tố tụng: Bà Nguyễn Thị C khởi kiện ông Nguyễn Văn T, ông T cư trú ấp T, xã M, huyện C, tỉnh An Giang, Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền, phù hợp theo quy định tại Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Ông Nguyễn Văn T đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông theo quy định tại Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

 [2]. Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa bà C và ông T là hợp pháp. Quá trình chung sống do ông, bà bất đồng quan điểm sống nên dẫn đến va chạm, mâu thuẫn, mất lòng tin với nhau. Ông T không quan tâm đến vợ con, tính tình không hợp, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Bà C và ông T ly thân từ năm 2014 đến nay không còn liên lạc. Tại phiên tòa, bà C xác định tình cảm không còn. Do đó, yêu cầu xin ly hôn của bà C là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

 [3]. Về con chung: Vợ chồng 01 con chung tên Nguyễn Ngọc Quỳnh N, sinh ngày 25/7/2011. Hiện cháu N đang sống với bà C. Khi ly hôn, bà C yêu cầu được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con. Tuy nhiên, việc giao con cho ai nuôi cần phải xem xét mọi mặt và quyền lợi của con chưa thành niên. Hiện nay cháu N đã sống ổn định với bà C. Bà C yêu cầu được nuôi dưỡng cháu N, ông T cũng không có ý kiến phản đối. Do đó, có căn cứ để chấp nhận nguyện vọng của bà C là được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng cháu N.

 [4]. Về cấp dưỡng nuôi con: Bà Nguyễn Thị C không yêu cầu nên Tòa án không xem xét đóng góp phí tổn nuôi con chung đối với ông T.

 [5]. Về tài sản chung: Không có

 [6]. Về nợ chung: Không có.

Ghi nhận hai bên xác định không có nợ chung, nhưng sau khi bản án ly hôn có hiệu lực pháp luật nếu có nguyên đơn xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của bà C và ông T thì ông, bà phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.

 [7]. Về án phí: Căn cứ nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bà Nguyễn Thị C phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 51, 53, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình;Điều 28, 35, 39, 147, 228, 273 Bộ luật tố tụng dân sựNghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của bà Nguyễn Thị C. [1]. Bà Nguyễn Thị C được ly hôn với ông Nguyễn Văn T.

Giấy chứng nhận kết hôn số 205, quyển số 01 ngày 30/10/2010 của UBND xã M, huyện C, tỉnh An Giang không còn giá trị pháp lý.

 [2]. Bà Nguyễn Thị C được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng 01 con chung tên Nguyễn Ngọc Quỳnh N, sinh ngày 25/7/2011.

Bà Nguyễn Thị C cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở ông Nguyễn Văn T trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

 [3]. Về án phí: Bà Nguyễn Thị C phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm 300.000 (ba trăm ngàn) đồng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 (ba trăm ngàn) đồng theo biên lai thu tiền số 0013759 ngày 10/4/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang.

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

246
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 119/2017/HNGĐ-ST ngày 03/08/2017 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:119/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 03/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;