TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 1191/2018/DS-PT NGÀY 24/12/2018 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GỬI GIỮ TÀI SẢN
Ngày 24 tháng 12 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố H xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 239/2018/TLPT-DS ngày 04/6/2018 về việc “Tranh chấp hợp đồng gửi giữ tài sản”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số 203/2018/DS-ST ngày 23/04/2018 của Toà án nhân dân Quận 6, Thành phố H bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 5699/2018/QĐ-PT ngày 28 tháng 11 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 10262/2018/QĐPT-DS ngày 14/12/2018 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông PNHĐ, sinh năm: 1992; địa chỉ: 240/35/14 đường NVL, Phường A, Quận B, Thành phố H Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là: ông LVT, sinh năm: 1993; địa chỉ: 402A NVL, Phường A, Quận B, Thành phố H là người đại diện theo ủy quyền của ông PNHĐ (theo văn bản ủy quyền số 007519 ngày 31/8/2017 tại Văn phòng công chứng Nguyễn Nguyệt Huệ) (có mặt).
2. Bị đơn: Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Thương mại - Dịch vụ Khách sạn NL, địa chỉ trụ sở: 141-143 đường BP, Phường C, Quận B, Thành phố H Người đại diện theo pháp luật của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Thương mại - Dịch vụ Khách sạn NL là bà Nguyễn Thị Huệ - Giám đốc Công ty.
Người đại diện theo ủy quyền hợp pháp của bị đơn là: ông NQT, sinh năm: 1981, địa chỉ: 6/73 đường NH, Thành phố NĐ, tỉnh NĐ; địa chỉ liên lạc: 171/105/4 NTG, Phường X, quận GV, Thành phố H là người đại diện theo uỷ quyền hợp pháp của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Thương mại Dịch vụ Khách sạn NL (theo văn bản ủy quyền ngày 06/8/2018) (có mặt).
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Công ty Trách nhiệm hữu hạn Dịch vụ Bảo vệ LH, địa chỉ trụ sở: 380/81/15 đường PVC, Phường S, quận GV, Thành phố H.
Người đại diện theo pháp luật của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Dịch vụ Bảo vệ LH là ông HVA – Giám đốc Công ty.
Người đại diện theo ủy quyền hợp pháp của Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là: ông NQT, sinh năm: 1981, địa chỉ: 6/73 đường NH, Thành phố NĐ, tỉnh NĐ; địa chỉ liên lạc: 171/105/4 NTG, Phường X, quận GV, Thành phố H là người đại diện theo uỷ quyền hợp pháp của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Thương mại - Dịch vụ Khách sạn NL (theo văn bản ủy quyền ngày 06/8/2018) (có mặt).
Người kháng cáo: Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Thương mại - Dịch vụ Khách sạn NL.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo bản án sơ thẩm;
- Tại đơn khởi kiện đề ngày 31/8/2017 và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn ông PNHĐ do ông LVT là người đại diện theo uỷ quyền trình bày:
Vào lúc 00 giờ ngày 28/10/2016, ông PNHĐ có đến Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Thương mại - Dịch vụ Khách sạn NL (sau đây viết là Khách sạn NL) để thuê phòng ở lưu trú tại khách sạn này. Đồng thời, ông Đ có gửi chiếc xe nhãn hiệu Honda, số loại SH 150I, màu trắng đen, dung tích 153, số khung là 10BOAFO50330, số máy là: 1052337KTGE1, biển số xe 59T1-864.24 tại bãi xe của Khách sạn NL và có nhận vé gửi giữ xe có số seri 0022716 từ bảo vệ của Khách sạn NL. Vào khoảng 7 giờ sáng cùng ngày, sau khi trả phòng khách sạn xuống bãi xe để lấy xe thì ông Đ phát hiện chiếc xe Honda SH 150I của ông không còn ở bãi giữ xe của Khách sạn NL nữa. Ông đã trình báo việc mất xe đến Công an Phường 11, Quận 6.
Vào ngày 08/11/2016, Công an Phường 11, Quận 6 có mời các bên đến để giải quyết sự việc mất xe trên. Tại Công an phường 11, Quận 6, Công ty Trách nhiệm hữu hạn Dịch vụ Bảo vệ LH (sau đây viết là công ty LH) là công ty bảo vệ mà Khách sạn NL thuê để bảo vệ Khách sạn NL chỉ đồng ý bồi thường cho ông Đ giá trị còn lại của chiếc xe Honda SH 150I bị mất là 40.000.000 đồng. Trong khi đó, tại thời điểm tháng 9/2016 thì ông Đ mua chiếc xe này với số tiền là 150.000.000 đồng.
Tại đơn khởi kiện, ông Đ khởi kiện yêu cầu Khách sạn NL phải bồi thường cho ông Đ giá trị chiếc xe bị mất với số tiền là 120.000.000 đồng. Tại phiên tòa sơ thẩm, ông Thông đại diện cho ông Đ chỉ yêu cầu bị đơn bồi thường cho ông Đ 87.000.000 đồng.
- Bị đơn Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Thương mại Dịch vụ Khách sạn NL do ông NQT đại diện theo ủy quyền trình bày:
Khách sạn NL có ký hợp đồng dịch vụ bảo vệ với công ty bảo vệ LH, theo hợp đồng thì Công ty bảo vệ LH sẽ cử hai nhân viên của công ty bảo vệ LH đến làm nhân viên bảo vệ cho Khách sạn NL. Nhiệm vụ của nhân viên bảo vệ là giữ xe được giới hạn trong khu vực bãi xe của Khách sạn NL, khu vực làm việc là ở hầm xe, thời gian làm việc trong ngày là 24/24h.
Ngày giờ, địa điểm gửi giữ xe, loại xe và mất xe đúng như nguyên đơn trình bày. Nhân viên bảo vệ Khách sạn NL là ông Thái Thành Tài người giữ xe dắt con chó của Khách sạn NL qua bên kia đường đi vệ sinh. Khi ông Đ xuống lấy xe thì lúc này bảo vệ mới phát hiện chiếc xe Honda, hiệu SH 150I biển số 59T1-864.24 của ông Đ dưới hầm xe đã bị mất. Sự việc mất xe đã được trình báo với Công an Phường 11, Quận 6.
Theo quy định trong hợp đồng dịch vụ bảo vệ thì khi Khách sạn NL bị mất mát tài sản thì Công ty bảo vệ LH có trách nhiệm bồi thường cho Khách sạn NL. Chính vì vậy, sau khi sự việc mất xe xảy ra thì Công ty bảo vệ LH đã thương lượng đền bù cho ông Đ với giá trị chiếc xe còn lại với số tiền là 40.000.000 đồng nhưng ông Đ không đồng ý.
Tại phiên tòa sơ thẩm, ông Đ khởi kiện yêu cầu Khách sạn NL phải bồi thường số tiền 87.000.000 đồng thì Khách sạn NL không đồng ý vì xe của ông Đ đã xuất xưởng vào năm 2010 đến thời điểm mất xe đã là hơn 06 năm, Khách sạn NL chỉ đồng ý bồi thường cho ông Đ số tiền là 45.000.000 đồng.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là Công ty Trách nhiệm hữu hạn Dịch vụ Bảo vệ LH do ông NQT là người đại diện theo uỷ quyền trình bày:
Khách sạn NL có ký hợp đồng dịch vụ bảo vệ với công ty bảo vệ LH, theo hợp đồng thì Công ty bảo vệ LH sẽ cử hai nhân viên của công ty bảo vệ LH đến làm nhân viên bảo vệ cho Khách sạn NL. Nhiệm vụ của nhân viên bảo vệ là giữ xe được giới hạn trong khu vực bãi xe của Khách sạn NL, khu vực làm việc là ở hầm xe, thời gian làm việc trong ngày là 24/24h. Vào lúc 00 giờ ngày 28/10/2016 ông Đ có đến thuê phòng tại Khách sạn NL và có gửi chiếc xe honda hiệu SH 150I, biển số 59T1-864.24 tại tầng hầm bãi xe của Khách sạn NL và đã bị mất. Nay ông Đ khởi kiện yêu cầu Khách sạn NL bồi thường thì ông đại diện cho Công ty bảo vệ LH cũng đồng quan điểm với Khách sạn NL là do xe của ông Đ đã xuất xưởng từ năm 2010, mỗi năm khấu hao là 10%. Vì vậy, Khách sạn NL bồi thường cho ông Đ số tiền 40.000.000 đồng là hợp lý.
Theo hợp đồng dịch vụ bảo vệ mà Khách sạn NL và công ty bảo vệ LH thì Công ty bảo vệ Long Hải SEPRE sẽ bồi thường cho Khách sạn NL khi mất tài sản của Khách sạn NL đã bàn giao cho Công ty bảo vệ LH quản lý. Vì vậy, sau khi Khách sạn NL bồi thường thiệt hại cho ông Đ xong thì Công ty bảo vệ LH và Khách sạn NL sẽ tự giải quyết với nhau về khoản tiền mà Khách sạn NL đã bồi thường cho ông Đ.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 203/2018/DS-ST ngày 23/4/2018 của Tòa án nhân dân Quận 6 đã quyết định:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông PNHĐ Buộc Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Thương mại – Dịch vụ Khách sạn NL phải bồi thường cho ông PNHĐ giá trị của chiếc xe gắn máy nhãn hiệu Honda, số loại SH 150I, màu sơn: trắng đen dung tích 153, số khung là 10BOAFO50330, số máy là: 1052337KTGE1, biển số xe 59T1-864.24 mà Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Thương mại – Dịch vụ Khách sạn NL đã làm mất vào ngày 28/10/2016 với số tiền là: 87.000.000đ (Tám mươi bảy triệu đồng) Thời gian bồi thường: Bồi thường làm một lần kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật Kể từ ngày ông PNHĐ có đơn yêu cầu thi hành nếu Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Thương mại – Dịch vụ Khách sạn NL không thi hành trả khoản tiền nêu trên thì Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên – Thương mại – dịch vụ Khách sạn NL còn phải trả lãi đối với số tiền chậm trả cho ông Đ tương ứng với thời gian chậm trả.
Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thoả thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 điều 468 Bộ luật dân sự 2015, nếu không có thoả thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự 2015.
Trong trường hợp sau này các cơ quan chức năng thu hồi được chiếc xe gắn máy nhãn hiệu Honda, số loại SH 150I, màu sơn: trắng đen dung tích 153, số khung là 10BOAFO50330, số máy là: 1052337KTGE1, biển số xe 59T1-864.24 thì chiếc xe gắn máy nhãn hiệu Honda, số loại SH 150I, màu sơn: trắng đen dung tích 153, số khung là 10BOAFO50330, số máy là: 1052337KTGE1, biển số xe 59T1-864.24 sẽ được giao lại cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Thương mại Dịch vụ Khách sạn NL.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về phần án phí, quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.
Ngày 07/5/2018 và ngày 15/5/2018, Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Thương mại - Dịch vụ Khách sạn NL nộp đơn kháng cáo.
Tại phiên tòa phúc thẩm, Nguyên đơn có ông LVT là người đại diện theo ủy quyền của ông Đ yêu cầu bị đơn bồi thường theo giá trị định giá ngày 15/11/2018 là 152.667.000 đồng và đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo của bị đơn Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Thương mại - Dịch vụ Khách sạn NL.
Bị đơn có ông NQT là người đại diện theo ủy quyền của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Thương mại - Dịch vụ Khách sạn NL vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Ông yêu cầu sửa bản án dân sự sơ thẩm với nội dung buộc bị đơn bồi thường cho nguyên đơn số tiền 2.000.000 đồng, là số tiền mua bán chiếc xe SH 150I giữa Hộ kinh doanh mua bán xe gắn máy Chí Bình với ông PNHĐ được ghi nhận trong Hóa đơn bán hàng số 0005412 ngày 10/10/2016. Đồng thời, yêu cầu được nhận lại số tiền 1.000.000 đồng chi phí định giá ngày 15/11/2018.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có ông NQT là người đại diện theo ủy quyền của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Dịch vụ Bảo vệ LH xác định đối với việc bồi thường do làm mất xe sẽ giải quyết sau với bị đơn.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến như sau: Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, của Hội đồng xét xử tại phiên tòa cũng như việc chấp hành pháp luật của các bên đương sự đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về nội dung giải quyết vụ án: đề nghị không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, sau khi nghe các bên đương sự trình bày ý kiến, sau khi nghe Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H phát biểu quan điểm, sau khi nghị án, Hội đồng xét xử nhận định:
Về hình thức: Đơn kháng cáo của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Thương mại - Dịch vụ Khách sạn NL trong hạn luật định, hợp lệ nên được chấp nhận.
- Về nội dung: Với nội dung kháng cáo của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Thương mại - Dịch vụ Khách sạn NL; Hội đồng xét xử xét thấy:
Các bên đương sự thống nhất ông PNHĐ (chủ sở hữu) mất chiếc xe nhãn hiệu Honda nói trên tại bãi xe Khách sạn NL do nhân viên của Công ty bảo vệ LH nhận giữ là đúng sự thật. Bị đơn đồng ý bồi thường giá trị tài sản bị mất nhưng nguyên đơn và bị đơn chưa thống nhất mức giá bồi thường giá trị xe nên xảy ra tranh chấp.
Đối với ý kiến của nguyên đơn về việc yêu cầu Hội đồng xét xử tuyên buộc Khách sạn NL bồi thường theo giá Hội đồng định giá ngày 15/11/2018, cao hơn mức giá yêu cầu bồi thường tại phiên tòa cấp sơ thẩm thì do nguyên đơn không kháng cáo bản án sơ thẩm nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không xem xét yêu cầu của nguyên đơn về giá bồi thường tại phiên tòa phúc thẩm.
Tại Văn bản số 63/TCKH ngày 17/01/2018 của Phòng Tài chính kế hoạch thuộc Ủy ban nhân dân Quận 6 xác định giá trị chiếc xe nhãn hiệu Honda, số loại SH 150I, màu sơn: trắng đen dung tích 153, số khung là 10BOAFO50330, số máy là: 1052337KTGE1, biển số xe 59T1-864.24 tại thời điểm tháng 10/2016 có giá là 87.000.000 đồng.
Theo đơn kháng cáo của Khách sạn NL đề ngày 13/5/2018 yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét lại mức giá bồi thường đối với chiếc xe nhãn hiệu Honda, số loại SH 150I, màu sơn: trắng đen dung tích 153, số khung là 10BOAFO50330, số máy là: 1052337KTGE1, biển số xe 59T1-864.24.
Ngày 20/8/2018, ông NQT là người đại diện theo ủy quyền của bị đơn có đơn yêu cầu định giá lại chiếc xe gắn máy trên.
Tại Biên bản định giá ngày 15/11/2018, Hội đồng định giá chiếc xe gắn máy nhãn hiệu Honda, số loại SH 150I, màu trắng đen, dung tích 152,7 cm3, số khung 10BOAF050330, số máy 1052337KTGE1, nhập khẩu mới 100% sản xuất năm 2010 tại Italy về Việt Nam thời điểm tháng 7/2010 (theo tờ khai nguồn gốc xe gắn máy nhập khẩu) tính đến thời điểm mất xe tháng 10/2016 (không thu hồi được) là 152.667.000 đồng.
Sau khi ông Tú được thông báo kết quả định giá, ông không đồng ý và ông cung cấp giá mua bán xe cùng chuẩn loại tham khảo trên mạng vào ngày 19/11/2018 (gửi qua đường bưu chính) với các giá trị của xe gắn máy nhãn hiệu Honda, số loại SH 150I được đăng bán tại các mục khác nhau với các mức giá là 63.500.000 đồng, 90.000.000 đồng, 118.000.000 đồng và 120.000.000 đồng, tính trung bình mức giá mua bán là 97.875.000 đồng.
Như vậy, giá của Hội đồng định giá và giá mua bán xe do ông Tú cung cấp cho Tòa án cao hơn giá mà nguyên đơn yêu cầu bị đơn bồi thường.
Từ những chứng cứ trên, xét thấy bản án sơ thẩm đã chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn là có căn cứ và có lợi cho phía bị đơn. Ông NQT là người đại diện theo ủy quyền của Khách sạn NL không cung cấp được chứng cứ chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của mình là đúng nên Hội đồng xét xử không chấp nhận và bác toàn bộ yêu cầu kháng cáo của Khách sạn NL, giữ nguyên các quyết định của bản án dân sự sơ thẩm.
Xét ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H đề nghị bác kháng cáo của Khách sạn NL là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
Về án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên Khách sạn NL phải chịu là 300.000 đồng, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2016/0029227 ngày 15/5/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 6.
Do không được chấp nhận đơn kháng cáo nên chi phí định giá Khách sạn NL phải chịu.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 308, khoản 1 Điều 148 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 559, Điều 560, Điều 561, khoản 1 khoản 4 Điều 562 của Bộ luật Dân sự năm 2005; Điều 357 của Bộ luật Dân sự năm 2015; khoản 1 Điều 34 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Điều 26 Luật Thi hành án dân sự;
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Thương mại - Dịch vụ Khách sạn NL, giữ nguyên các quyết định của Bản án dân sự sơ thẩm.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông PNHĐ.
1/ Buộc Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Thương mại – Dịch vụ Khách sạn NL phải bồi thường cho ông PNHĐ giá trị của chiếc xe gắn máy nhãn hiệu Honda, số loại SH 150I, màu sơn: trắng đen dung tích 153, số khung là 10BOAFO50330, số máy là: 1052337KTGE1, biển số xe 59T1-864.24 mà Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Thương mại – Dịch vụ Khách sạn NL đã làm mất vào ngày 28/10/2016 với số tiền là: 87.000.000đ (Tám mươi bảy triệu đồng).
Thời gian bồi thường: Bồi thường làm một lần kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật
2/ Kể từ ngày ông PNHĐ có đơn yêu cầu thi hành nếu Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Thương mại – Dịch vụ Khách sạn NL không thi hành trả khoản tiền nêu trên thì Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Thương mại – Dịch vụ Khách sạn NL còn phải trả lãi đối với số tiền chậm trả cho ông Đ tương ứng với thời gian chậm trả.
Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thoả thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật Dân sự 2015, nếu không có thoả thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự 2015.
3/ Trong trường hợp sau này các cơ quan chức năng thu hồi được chiếc xe gắn máy nhãn hiệu Honda, số loại SH 150I, màu sơn: trắng đen dung tích 153, số khung là 10BOAFO50330, số máy là: 1052337KTGE1, biển số xe 59T1-864.24 thì chiếc xe gắn máy nhãn hiệu Honda, số loại SH 150I, màu sơn: trắng đen dung tích 153, số khung là 10BOAFO50330, số máy là: 1052337KTGE1, biển số xe 59T1-864.24 sẽ được giao lại cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Thương mại – Dịch vụ Khách sạn NL.
4/ Về án phí dân sự sơ thẩm là: 4.350.000đ (Bốn triệu ba trăm năm mươi ngàn đồng) do Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Thương mại – Dịch vụ Khách sạn NL nộp.
Ông PNHĐ không phải nộp án phí, trả lại cho ông PNHĐ số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 3.000.000đ (Ba triệu đồng) theo biên lai thu số 0028070 ngày 25/9/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 6.
5/ Về chi phí định giá tài sản là: 1.000.000đ (một triệu đồng), Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Thương mại – Dịch vụ Khách sạn NL phải chịu, được trừ vào số tiền 1.000.000đ (một triệu đồng) mà bị đơn đã nộp theo Phiếu thu số 593 ngày 06/11/2018 của Tòa án nhân dân Thành phố H.
6/ Về án phí dân sự phúc thẩm là: 300.000đ (ba trăm ngàn đồng), Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Thương mại – Dịch vụ Khách sạn NL phải chịu, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2016/0029227 ngày 15/5/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 6.
Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện yêu cầu thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 1191/2018/DS-PT ngày 24/12/2018 về tranh chấp hợp đồng gửi giữ tài sản
Số hiệu: | 1191/2018/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 24/12/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về