Bản án 118/2020/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GÒ DẦU, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 118/2020/HS-ST NGÀY 21/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 11 năm 2020, tại Trường tiểu học Trâm Vàng, thuộc ấp Trâm Vàng 3, xã Thanh Phước, huyện G, tỉnh T, Tòa án nhân dân huyện G, tỉnh T tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 110/2020/HSST ngày 14 tháng 10 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 123/2020/QĐXXST- HS ngày 09 tháng 11 năm 2020, đối với bị cáo:

Nguyễn Văn A, tên gọi khác: không có; sinh năm 1981, tại tỉnh B; nơi cư trú: ấp C, xã D, huyện E, tỉnh B; nghề nghiệp: không có; trình độ học vấn: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn C (đã chết) và bà Nguyễn Thị S, sinh năm 1960; vợ: Nguyễn Thị H, sinh năm 1980; con: chưa có; tiền án, tiền sự: không có (vì đã được xóa); bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 19-7-2020 cho đến nay; bị cáo có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ ngày 16-6-2020, bị cáo Nguyễn Văn A điều khiển xe môtô biển số 36K3-xxxx đến khu vực Khu công nghiệp Linh Trung 3, thị xã F, gặp người tên G không rõ lý lịch mua 07 bịch ma túy giá 1.000.000 đồng, rồi đem về nhà ở ấp C, xã D, huyện E, cất giấu để sử dụng. Đến khoảng 18 giờ cùng ngày, bị cáo A cùng với Võ Hồng H, Lê Thanh I và Nguyễn Thanh K đến nhà của Hà Vũ L thuộc ấp M, xã N, huyện E. Tại đây, bị cáo A lấy một bịch ma túy ra sử dụng cùng với H, I, L và K. Sau đó, bị cáo A lấy 06 bịch ma túy cất giấu dưới giường nhà của L. Đến 22 giờ 40 phút cùng ngày, Công an huyện G phối hợp cùng Công an xã Thanh Phước đến kiểm tra thì bị cáo A, I và H chạy thoát. Công an thu giữ vật chứng 06 bịch nylon màu trắng được hàn kín bên trong chứa tinh thể rắn màu trắng (Ký hiệu M).

Tại cơ quan điều tra, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Tại bản kết luận giám định số 910 ngày 19/6/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T kết luận: Mẫu tinh thể rắn màu trắng bên trong 06 bịch nylon màu trắng được hàn kín (Ký hiệu M) gửi đến giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 1,5635 gam..

Vật chứng thu giữ gồm: 01 (một) gói niêm phong ghi vụ số: 910/KL-KTHS có dấu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự công an tỉnh T và chữ ký của giám định viên Võ Quốc Thái và trợ lý Nguyễn Thị Thùy Dương, còn lại 1,3782 gam chất ma túy sau giám định; 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu FATAKI (loại xe Wave), biển số 36K3-xxxx, số máy LC152FMH01754362, số khung VMXLCG00052U701585, 103 cm3; 01 điện thoại di động hiệu Samsung, loại model SM-G5321/DS, màu vàng – bạc, đã qua sử dụng; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy; 06 ống hút bằng nhựa màu trắng.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 26 tháng 10 năm 2020 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện G).

Về kê biên tài sản: Do bị cáo không có tài sản nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện G, tỉnh T không kê biên.

Đối với người tên G bán ma túy cho bị cáo A, hiện chưa xác định được, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

Đối với Nguyễn Thanh K, Võ Hồng H và Lê Thanh I có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, Công an huyện G đã xử phạt hành chính. Đối với Hà Vũ L có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy nhưng đã chết nên Cơ quan điều tra không xử lý.

Cáo trạng số: 123/CT-VKSGD ngày 13-10-2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện G đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn A về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa sơ thẩm:

Bị cáo đã thành khẩn thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện G giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo mức án từ 03 đến 04 năm tù. Đề nghị xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nói lời nói sau cùng: Bị cáo đã ăn năn, hối cải, xin Hội đồng xét xử cho bị cáo mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện G, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện G, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo: Quá trình điều tra, truy tố và xét xử tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn A đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với kết luận giám định, vật chứng được thu giữ, cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có cơ sở xác định: Vào lúc 22 giờ 40 phút, ngày 16-6-2020, tại ấp M, xã N, huyện E, tỉnh B, bị cáo A có hành vi tàng trữ trái phép 1,5635 gam chất ma túy loại Methamphetamine để sử dụng. Do đó, hành vi của bị cáo đã thỏa mãn các yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[3] Vụ án này mang tính chất nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của nhà nước về các chất ma tuý, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, làm mất trật tự trị an tại địa phương, ảnh hưởng đến sức khỏe của con người. Nên cần xử phạt các bị cáo với mức án nghiêm khắc mới đủ sức răn đe và tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, để cải tạo giáo dục bị cáo thành công dân tốt, biết chấp hành pháp luật khi hòa nhập cộng đồng, nhằm đạt được mục đích giáo dục riêng và phòng ngừa chung cho xã hội.

[4] Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xem xét đến nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo:

[4.1] Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, cụ thể: năm 1999, đã bị Tòa án nhân dân tỉnh T xử phạt 42 tháng tù về tội „Gây rối trật tự công cộng” và “Cố ý gây thương tích”; năm 2005, đã bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

[4.2] Tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có.

[4.3] Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 nên cần áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[5] Hình phạt đối với bị cáo:

Sau khi xem xét tính chất, mức độ hành vi nguy hiểm của bị cáo, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng khung hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

[6] Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có tài sản nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng:

- 01 (một) gói niêm phong ghi vụ số: 910/KL-KTHS có dấu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự công an tỉnh T và chữ ký của giám định viên Võ Quốc Thái và trợ lý Nguyễn Thị Thùy Dương, còn lại 1,3782 gam chất ma túy sau giám định là chất cấm lưu hành, nên cần tịch thu tiêu huỷ.

- 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy; 06 (sáu) ống hút bằng nhựa màu trắng là vật chứng trong vụ án, không còn giá trị sử dụng nên tịch thu, tiêu hủy.

- 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu FATAKI (loại xe Wave), biển số 36K3-xxxx, số máy LC152FMH01754362, số khung VMXLCG00052U701585, 103 cm3; 01 điện thoại di động hiệu Samsung, loại model SM-G5321/DS, màu vàng – bạc, đã qua sử dụng là công cụ, phương tiện của bị cáo dùng để sử dụng, liên lạc mua ma túy nên cần tịch thu, sung vào Ngân sách nhà nước.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 26 tháng 10 năm 2020 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện G).

[8] Đối với người tên G bán ma túy cho bị cáo A, hiện chưa xác định được, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

Đối với Nguyễn Thanh K, Võ Hồng H và Lê Thanh I có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, Công an huyện G đã xử phạt hành chính. Đối với Hà Vũ L có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy nhưng đã chết nên Cơ quan điều tra không xử lý.

[9] Xét thấy đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện G phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[10] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án;

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn A 03 (ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 19 tháng 7 năm 2020.

2. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

3. Các biện pháp tư pháp:

- Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tuyên tịch thu tiêu hủy: 01 (một) gói niêm phong ghi vụ số: 910/KL-KTHS có dấu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự công an tỉnh T và chữ ký của giám định viên Võ Quốc Thái và trợ lý Nguyễn Thị Thùy Dương, còn lại 1,3782 gam chất ma túy sau giám định, 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy; 06 (sáu) ống hút bằng nhựa màu trắng.

Tịch thu, sung vào Ngân sách nhà nước: 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu FATAKI (loại xe Wave), biển số 36K3-xxxx, số máy LC152FMH01754362, số khung VMXLCG00052U701585, 103 cm3; 01 điện thoại di động hiệu Samsung, loại model SM-G5321/DS, màu vàng – bạc, đã qua sử dụng.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 26 tháng 10 năm 2020 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện G)

4. Án phí: Căn cứ vào Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án:

Bị cáo Nguyễn Văn A phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh T trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

98
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 118/2020/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:118/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gò Dầu - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;