Bản án 118/2020/HS-ST ngày 29/12/2020 về tội chứa mại dâm

TÒA ÁN NHÂN DÂN T PHỐ SÓC TRĂNG, TỈNH SÓC TRĂNG

 BẢN ÁN 118/2020/HS-ST NGÀY 29/12/2020 VỀ TỘI CHỨA MẠI DÂM

Ngày 29 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân T phố S, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 130/2020/TLST-HS ngày 30 tháng 11 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 130/2020/QĐXXST-HS đối với bị cáo:

Nguyễn Hữu P, sinh năm 1966 tại huyện K, tỉnh Sóc Trăng; Nơi cư trú: ấp P, xã S, huyện L, tỉnh Sóc Trăng; Nghề nghiệp: Làm thuê; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Trình độ văn hóa (học vấn): 06/12; Con ông Nguyễn T L và bà Trương Thị T; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 28-7-2020 cho đến nay. (có mặt) - Người làm chứng:

1. Bà Trần Thị Thanh H, sinh năm 1993; Nơi tạm trú: Nhà trọ 543 T, Khóm 8, Phường 3, T phố S, tỉnh Sóc Trăng. (vắng mặt)

2. Bà Phạm Huỳnh T, sinh năm 1983; Nơi tạm trú: Số 1079 đường Q, Khóm 3, Phường 2, T phố S, tỉnh Sóc Trăng. (vắng mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 20 giờ 30 phút, ngày 28-7-2020, C cùng với hai người bạn của C là T và Nđến gặp P và đề nghị P gọi 03 gái bán dâm cho C, T và Nmua dâm tại khách sạn B tại Số 497 đường T, Khóm 8, Phường 3, T phố S, thì P đồng ý. P hướng dẫn và đưa chìa khóa phòng cho C vào phòng số 103, Nvào phòng số 201 và T vào phòng số 204. Sau đó, P dùng số điện thoại di động 0939.648.474 gọi vào số điện thoại 0354.485.675 của H để kêu H đến khách sạn bán dâm cho khách, tiếp đó P tiếp tục gọi vào số điện thoại 0973.564.680 của Phan Văn An, kêu An kêu giùm 02 gái bán dâm để bán dâm cho khách. Khoảng 05 phút sau, H điều khiển xe mô tô đến khách sạn gặp P và được P giới thiệu vào phòng số 201 để bán dâm cho Nhật, cùng lúc này thì Phạm Huỳnh T điều khiển xe mô tô chở Nguyễn Sử Trọng T cũng vừa đến thì được P giới thiệu T vào phòng 103 bán dâm cho C và Tâm vào phòng 204 bán dâm cho T. Khi 03 cặp đang thực hiện hành vi mua bán dâm, thì bị Công an tiến hành kiểm tra bắt quả tang cùng vật chứng.

Trong quá trình điều tra, Nguyễn Hữu P khai nhận: P được ông Nguyễn Hữu N là chủ khách sạn B ký hợp đồng lao động thuê vào làm quản lý khách sạn B, từ ngày 14-01-2019 cho đến ngày bị bắt. Trong thời gian làm quản lý khách sạn, thì gái bán dâm đến gặp và đặt vấn đề với P khi nào có khách đến thuê phòng, có nhu cầu mua dâm thì gọi điện thoại cho gái bán dâm đến bán dâm cho khách, rồi gái bán dâm cho tiền P, thì P đồng ý. Từ khoảng tháng 7-2020 đến ngày bị bắt, P đã đã giới thiệu cho H bán dâm tại khách sạn B được khoảng 02 lần, tính luôn lần bắt quả tang, mỗi lần bán dâm thì P thỏa thuận với khách mua dâm là 500.000 đồng và số tiền này được H nhận, sau khi bán dâm xong, H phải đưa cho P 100.000 đồng. Còn T và T chỉ đến khách sạn Bbán dâm lần đầu thì bị bắt. Ngoài giới thiệu cho H bán dâm tại khách sạn B, trước đó P còn giới thiệu cho 02 gái bán dâm không rõ họ tên và địa chỉ, bán dâm cho khách mua dâm 01 lần và gái bán dâm đưa cho P mỗi gái bán dâm 100.000 đồng.

Tại Cáo trạng số 130/VKS.TPST ngày 27-11-2020 của Viện kiểm sát nhân dân T phố S đã truy tố bị cáo Nguyễn Hữu P về tội “Chứa mại dâm” theo quy định tại điểm c Khoản 2 Điều 327 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Hữu P phạm tội “Chứa mại dâm”.

Áp dụng điểm c Khoản 2 Điều 327; điểm r, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo từ 05 năm đến 06 năm tù.

Tịch thu sung nộp vào Ngân sách Nhà nước số tiền thu lợi bất chính là 350.000 đồng.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); điểm b, c Khoản 2, điểm a Khoản 3 của Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015;

Tịch thu tiêu hủy: 02 bao cao su đã qua sử dụng; 03 bao cao su chưa qua sử dụng trên mỗi bao có dòng chữ Vip.

Tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu OPPO có võ màu đen đã qua sử dụng.

Trả lại cho bị cáo Nguyễn Hữu P: 01 điện thoại di động hiệu Nokia có võ màu trắng đã qua sử dụng.

Giao 01 điện thoại di động hiệu Nokia có võ màu trắng đã qua sử dụng cho Cơ quan Điều tra – Công an T phố S tiếp tục quản lý để xác minh làm rõ và xử lý theo quy định pháp luật.

Tại phiên toà, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, thừa nhận Cáo trạng truy tố bị cáo là đúng tội. Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra và truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Ngoài ra, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, không có người nào có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa, những người làm chứng là bà Trần Thị Thanh H và bà Phạm Huỳnh T không có lý do. Xét thấy, trong quá trình điều tra thì những người làm chứng nêu trên đã có lời khai rõ ràng về các tình tiết của vụ án và việc vắng mặt của người làm chứng trên cũng không làm ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 293 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 để xét xử vắng mặt đối với người làm chứng trên. [3]. Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Hữu P đã khai nhận:

Bị cáo P được ông Nguyễn Hữu N là chủ khách sạn B tại Số 497 đường T, Khóm 8, Phường 3, T phố S ký hợp đồng vào làm quản lý khách sạn nên trong khoảng thời gian từ tháng 7-2020 cho đến ngày bị bắt thì bị cáo đã gọi và giới thiệu cho gái bán dâm đến khách sạn B để bán dâm cho khách, trong đó Trần Thị Thanh H bán dâm được 02 lần, Phạm Huỳnh T bán dâm được 01 lần, Nguyễn Sử Trọng Tbán dâm được 01 lần và 02 gái bán dâm không rõ họ tên và địa chỉ bán dâm cho khách 01 lần, mỗi lần giới thiệu gái bán dâm cho khách thì bị cáo thu lợi của gái bán dâm 100.000 đồng. Vào ngày 28-7-2020, bị cáo đã giới thiệu cho gái bán dâm là H, T và Tâm bán dâm cho Lý C, Nguyễn Văn T và Lâm Minh N tại khách sạn B thì bị công an tiến hành kiểm tra bắt quả tang.

[4]. Lời khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo tại phiên tòa là hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, những người tham gia tố tụng khác cũng như các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xác định:

Đối với bị cáo Nguyễn Hữu P là quản lý của khách sạn B nhưng đã giới thiệu gái bán dâm đến khách sạn để bán dâm cho khách mua dâm, cụ thể Trần Thị Thanh H bán dâm được 02 lần, Phạm Huỳnh T bán dâm được 01 lần và Nguyễn Sử Trọng Tbán dâm được 01 lần nên bị cáo phạm tội thuộc trường hợp 02 lần trở lên. Do đó, Hội đồng xét xử kết luận bị cáo Nguyễn Hữu P phạm tội “Chứa mại dâm” theo điểm c Khoản 2 Điều 327 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Từ việc tổ chức mua bán dâm tại khách sạn B thì bị cáo thu lợi được số tiền là 350.000 đồng. Xét thấy, đây là tiền thu lợi bất chính nên cần buộc bị cáo giao nộp để sung vào Ngân sách Nhà nước.

Như vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5]. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Xét về nhân thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Sau khi phạm tội bị cáo đã T khẩn khai báo. Bị cáo tự khai ra lần phạm tội trước đó. Bị cáo đã tự nguyện giao nộp số tiền thu lợi bất chính là 350.000 đồng. Do đó, cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm r, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) cho bị cáo.

[6]. Về xử lý vật chứng của vụ án như sau:

Đối với 05 bao cao su là vật không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy Đối với 01 điện thoại di động hiệu OPPO là của bị cáo dùng để liên hệ gái bán dâm đến bán dâm cho khách còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước.

Đối với 01 điện thoại di động hiệu Nokia do chưa làm rõ được chủ sở hữu nên cần giao cho Cơ quan Điều tra – Công an T phố S tiếp tục quản lý để xác minh làm rõ và xử lý theo quy định pháp luật.

[7]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

[8]. Đối với những gái bán dâm là Trần Thị Thanh H, Phạm Huỳnh T và Nguyễn Sử Trọng T thì Cơ quan Điều tra đã tiến hành xử phạt hành chính nên không truy cứu trách nhiệm hình sự.

Đối với Lý C, Lâm Minh N và Nguyễn Văn T là những người mua dâm nhưng qua xác minh thì không có đăng ký hộ khẩu thường trú cũng như tạm trú tại địa chỉ đã khai tại cơ quan Điều tra. Đề nghị Cơ quan Điều tra tiếp tục xác minh làm rõ để xử lý theo quy định pháp luật.

Đối với Phan Văn A là người giới thiệu cho bị cáo P 02 gái bán dâm là Phạm Huỳnh T và Nguyễn Sử Trọng T nhưng do hiện nay A không có mặt tại địa phương nên chưa làm việc được. Đề nghị Cơ quan Điều tra tiếp tục xác minh làm rõ để xử lý theo quy định pháp luật.

Đối với ông Nguyễn Hữu N là chủ khách sạn B việc bị cáo P sử dụng khách sạn này làm nơi chứa mại dâm thì ông không biết nên không truy cứu trách nhiệm hình sự.

[9]. Xét lời đề nghị của Kiểm sát viên về tội danh và việc áp dụng pháp luật là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Riêng về hình phạt cần xử phạt bị cáo ở mức khởi điểm Kiểm sát viên đề nghị là phù hợp.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c Khoản 2 Điều 327; điểm r, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Căn cứ vào điểm b, c Khoản 2, điểm a Khoản 3 Điều 106; Khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Hữu P phạm tội “Chứa mại dâm”.

1. Xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu P 05 (năm) năm tù. Thời hạn phạt tù tính từ ngày 28-7-2020.

Tịch thu nộp vào Ngân sách Nhà nước số tiền thu lợi bất chính là 350.000 đồng theo Biên lai thu tiền số 001208 ngày 23-11-2020 của Chi cục Thi hành Dân sự T phố S, tỉnh Sóc Trăng.

2. Về xử lý vật chứng: Theo Phiếu nhập kho số NK023 ngày 27-11-2020 của Chi cục Thi hành Dân sự T phố S, tỉnh Sóc Trăng như sau:

Tịch thu tiêu hủy: 02 bao cao su đã qua sử dụng; 03 bao cao su chưa qua sử dụng trên mỗi bao có dòng chữ Vip.

Tịch thu nộp vào Ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu OPPO có võ màu đen đã qua sử dụng.

Giao 01 điện thoại di động hiệu Nokia có võ màu trắng đã qua sử dụng cho Cơ quan Điều tra – Công an T phố S tiếp tục quản lý để xác minh làm rõ và xử lý theo quy định pháp luật.

3. Về án phí: Buộc bị cáo phải nộp là 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Báo cho bị cáo được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử lại theo trình tự P thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

274
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 118/2020/HS-ST ngày 29/12/2020 về tội chứa mại dâm

Số hiệu:118/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sóc Trăng - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;