Bản án 118/2020/HSST ngày 13/08/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP – THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 118/2020/HSST NGÀY 13/08/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 13 tháng 8 năm 2020 tại Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh mở phiên toà xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 126/2020/HSST ngày 21 tháng 7 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 137/2020/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 7 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Hùng P; giới tính: Nam, sinh năm 1985 tại tỉnh Ninh Thuận; Hộ khẩu thường trú và nơi cư trú: Thôn Dân Hòa, xã Thuận Hòa, huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; Con ông Nguyễn Văn Hùng (sinh năm 1961) và bà Nguyễn Thị Thu Lan (sinh năm 1963); Hoàn cảnh gia đình : Chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự : không. Bị cáo bị bắt và tạm giam ngày 16/4/2020 (Có mặt).

Bị hại :

- Bà Phạm Lan H, sinh năm 1994; Trú tại: 222 Phạm Ngũ Lão, Phường 07, quận Gò Vấp, Tp. Hồ Chí Minh (vắng mặt) Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan :

- Bà Phạm Nguyễn Hoài T, sinh năm 1994; Trú tại: 144 đường Đồng Nai, Phường 15, quận Tân Bình, Tp. Hồ Chí Minh (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ 15 phút ngày 15/4/2020, Nguyễn Hùng P điều khiển xe gắn máy hiệu Honda SH biển số 51H5-3377 chở bạn gái là Phạm Nguyễn Hoài T, sinh năm 1994 đến cửa hàng bán túi xách, địa chỉ 222 Phạm Ngũ Lão, phường 7, quận Gò Vấp để tìm mua túi, T ở ngoài chờ còn P đi vào bên trong cửa hàng, khi vào xem thì thấy trên bàn tính tiền có để 01 ĐTDĐ hiệu Iphone XR màu vàng đồng nên P nảy sinh ý định lấy trộm, P đi ra kêu T vào lựa túi xách nhằm mục đích để người bán tiếp chuyện với T tạo điều kiện thuận lợi cho P lấy trộm điện thoại. Lợi dụng lúc chị Phạm Lan H là chủ cửa hàng đang tiếp chuyện với T thì P lấy điện thoại bỏ vào túi quần rồi kêu T đi về, khi P và T vừa đi ra ngoài thì anh Đỗ Việt Tiến là bạn của chị H xem camera phát hiện P lấy trộm điện thoại nên hỏi chị H, lúc này P sợ bị phát hiện nên bỏ điện thoại trộm được vào chậu cây trước nhà số 220 Phạm Ngũ Lão rồi lấy xe định tẩu thoát nhưng xe không nổ máy nên bị anh Tiến giữ lại trình báo Công an phường 7, quận Gò Vấp thu giữ vật chứng và lập biên bản phạm tội quả tang.

Nguyễn Hùng P khai nhận hành vi nêu trên và khai việc trộm cắp điện thoại là do tự ý nảy sinh và một mình thực hiện, T không biết, không bàn bạc gì với T.

Ngoài ra, Nguyễn Hùng P còn khai nhận thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản khác tại quận Bình Thạnh, như sau: khoảng 18 giờ ngày 15/4/2020, P sử dụng xe gắn máy biển số 51H-3377 chở Phạm Nguyễn Hoài T đến quán ăn số 150 Nguyễn Văn T, phường 25, quận Bình Thạnh, T ở ngài trông xe, P đi vào bên trong lấy trộm 01 ĐTDĐ hiệu VS Mart-Bee3 màu tím đưa cho T cất giữ rồi chở T đến quán cà phê Box, địa chỉ: 860/66 Xô Viết Nghệ Tĩnh, phường 25, quận Bình Thạnh, T ở ngoài chờ, P vào bên trong lấy trộm 01 ĐTDD hiệu SamSung đưa cho T cất giữ. Cơ quan điều tra Công an quận Gò Vấp đã thông báo và bàn giao vật chứng cho Công an quận Bình Thạnh giải quyết theo thẩm quyền.

Vật chứng:

- 01 điện thoại hiệu Iphone XR P trộm cắp của chị Phạm Lan H.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 123 ngày 21/4/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Gò Vấp kết luận tại thời điểm ngày 15/4/2020 có trị giá 8.5000.000 đồng.

Cơ quan điều tra đã xử lý vật chứng trả lại cho chị Phạm Lan H.

- 01 xe gắn máy màu đen hiệu Honda SH, biển số: 51H5-3377, số khung: RRRACK2017D601650, số máy: VDTFS157MK601650 P sử dụng đi trộm cắp tài sản, bị can P khai xe do P mua của cửa hàng xe máy Nguyễn Xuân Cường, địa chỉ:

111/31 Lý Thánh Tông, phường Thới Hòa, quận Tân Phú với giá 18.000.000 đồng bằng giấy viết tay, chưa làm thủ tục sang tên. Kết quả xác minh, xe do ông Tiêu Diệc Bình đứng tên đăng ký, năm 2007 ông Bình đã bán xe cho bà Trần Thị Trà Giang, bà Giang hiện không còn cư trú tại địa chỉ thể hiện trên hợp đồng, không rõ đi đâu.

- Thu giữ của Nguyễn Hùng P 01 ĐTDĐ hiệu Iphone XS Max.

Cơ quan điều tra đã nhập kho vật chứng xe máy biển số: 51H5-3377 và 01 ĐTDĐ hiệu Iphone XS Max theo phiếu nhập kho số 121 ngày 15/5/2020.

- 01 thẻ nhớ ghi hình P thực hiện hành vi trộm cắp điện thoại trích xuất từ dữ liệu camera lưu theo hồ sơ vụ án:

- 01 ĐTDĐ Iphone 6 Plus và 01 túi xách màu vàng bên trong có số tiền 1.920.000 đồng là tài sản cá nhân của Phạm Nguyễn Hoài T không liên quan trong vụ án, Cơ quan điều tra đã xử lý trả lại cho T.

Về bồi thường dân sự: Chị Phạm Lan H đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu bồi thường.

Tại bản cáo trạng số 127/Ctr-VKS, ngày 16/7/2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp đã truy tố bị cáo Nguyễn Hùng P về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Nguyễn Hùng P đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như kết luận điều tra và cáo trạng truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp sau khi phân tích nội dung vụ án, những tính chất và hậu quả của vụ án đối với xã hội, các tình tiết định tội, định khung hình phạt, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì vẫn giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khỏan 1 Điều 173, điểm i, s khỏan 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Hùng P mức án từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

- Miễn phạt bổ sung cho bị cáo.

- Giao cho Chi cục Thi hành án dân sự quận Gò Vấp đăng báo tìm chủ sở hữu 01 xe gắn máy màu đen hiệu Honda SH, biển số: 51H5-3377, số khung: RRRACK2017D601650, số máy: VDTFS157MK601650 trong thời hạn 03 tháng nếu không ai đến nhận thì tịch thu sung quỹ Nhà nước.

- Tịch thu lưu kèm hồ sơ vụ án 01 thẻ nhớ ghi hình:

- Trả lại cho bị cáo 01 ĐTDĐ hiệu Iphone XS Max Qua ý kiến luận tội của đại diện Viện kiểm sát bị cáo nhất trí và không có ý kiến tranh luận gì, lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an quận Gò Vấp, Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Qúa trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai người bị hại, lời khai của người làm chứng, cùng với tang vật đã thu giữ, phù hợp với kết luận điều tra của cơ quan Công an quận Gò Vấp, với bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp và với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Tài sản bị cáo trộm cắp có giá trị 8.500.000 đồng. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở pháp lý để cho rằng hành vi của Nguyễn Hùng P đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung như Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp đã truy tố.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Lợi dụng sự sơ hở mất cảnh giác của người bị hại, bị cáo cố ý lén lút vào các cửa hàng kinh doanh để chiếm đoạt tài sản của bị hại, điều đó cho thấy bị cáo rất xem thường pháp luật. Hành vi của bị cáo đã xâm hại đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác được Pháp luật và Nhà nước bảo hộ. Mặt khác, còn gây ảnh hưởng tác động xấu đến tình hình trật tự trị an xã hội và trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo chỉ vì muốn có tiền tiêu xài phục vụ cho những nhu cầu cá nhân mà không phải thông qua lao động chân chính nên đã thực hiện hành vi phạm tội nên cần thiết phải xử lý nghiêm, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục cải tạo bị cáo đồng thời cũng nhằm mục đích phòng ngừa tội phạm chung cho xã hội.

[4] Tuy nhiên, khi lượng hình cần xem xét cho bị cáo một số tình tiết: Tại cơ quan điều tra cũng như qua diễn biến phiên tòa hôm nay bị cáo đã thật thà khai báo, thành khẩn nhận tội, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên Hội đồng xét xử áp dụng điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[5] Về hình phạt bổ sung quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật hình sự, Hội đồng xét xử xét tính chất vụ án và hoàn cảnh của bị cáo nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Đối với hành vi trộm cắp tài sản bị cáo thực hiện tại quận Bình Thạnh, cơ quan điều tra đã chuyển vật chứng cho cơ quan điều tra quận Bình Thạnh đề điều tra theo thẩm quyền là có cơ sở.

Đối với Phạm Nguyễn Hoài T không biết việc bị cáo kêu vào cửa hàng đánh lạc hướng người bán hàng để bị cáo trộm cắp tài sản. Bị cáo không bàn bạc gì với T nên không đủ cơ sở xử lý hình sự đối với T.

[6] Về trách nhiệm dân sự : Tại phiên tòa, bị hại chị Phạm Lan H vắng mặt nhưng qua hồ sơ thể hiện người bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về xử lý vật chứng:

- 01 điện thoại hiệu Iphone XR P trộm cắp của chị Phạm Lan H. Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc điện thoại cho chị Phạm Lan H. Xét, việc trả lại tài sản trên là hợp lệ nên không đưa ra xem xét giải quyết lại.

- 01 xe gắn máy màu đen hiệu Honda SH, biển số: 51H5-3377, số khung:

RRRACK2017D601650, số máy: VDTFS157MK601650 bị cáo khai xe do P mua của cửa hàng xe máy Nguyễn Xuân Cường với giá 18.000.000 đồng bằng giấy viết tay, chưa làm thủ tục sang tên. Kết quả xác minh, xe do ông Tiêu Diệc Bình đứng tên đăng ký, năm 2007 ông Bình đã bán xe cho bà Trần Thị Trà Giang, bà Giang hiện không còn cư trú tại địa chỉ thể hiện trên hợp đồng, không rõ đi đâu, cơ quan điều tra đã đăng báo tìm chủ sở hữu nhưng đến nay chưa có ai đến nhận. Xét, chiếc xe không xác định được chủ sở hữu hợp pháp, bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội nên Hội đồng xét xử quyết định tiếp tục giao cho Chi cục Thi hành án dân sự quận Gò Vấp đăng báo tìm chủ sở hữu trong thời hạn 03 tháng nếu không ai đến nhận thì tịch thu sung quỹ Nhà nước.

- 01 ĐTDĐ hiệu Iphone XS Max là tư vật của bị cáo không liên quan đến vụ án nên Hội đồng xét xử quyết định trả lại cho bị cáo.

- 01 thẻ nhớ ghi hình P thực hiện hành vi trộm cắp điện thoại trích xuất từ dữ liệu camera là chứng cứ vụ án nên Hội đồng xét xử quyết định tịch thu lưu theo hồ sơ vụ án:

- 01 ĐTDĐ Iphone 6 Plus và 01 túi xách màu vàng bên trong có số tiền 1.920.000 đồng là tài sản cá nhân của Phạm Nguyễn Hoài T không liên quan trong vụ án, cơ quan điều tra đã xử lý trả lại cho T. Xét, việc trả lại tài sản trên là hợp lệ nên không đưa ra xem xét giải quyết lại.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hùng P phạm tội “ Trộm cắp tài sản ”:

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Hùng P 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 16/4/2020 Áp dụng Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự và khỏan 1, 2, 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Giao cho Chi cục Thi hành án dân sự quận Gò Vấp đăng báo tìm chủ sở hữu 01 xe gắn máy màu đen hiệu Honda SH, biển số: 51H5-3377, số khung: RRRACK2017D601650, số máy: VDTFS157MK601650 trong thời hạn 03 tháng nếu không ai đến nhận thì tịch thu sung quỹ Nhà nước.

- Trả lại cho bị cáo 01 ĐTDĐ hiệu Iphone XS Max (Theo Phiếu nhập kho vật chứng số 121/PNK ngày 15/5/2020 của Công an quận Gò Vấp) - Tịch thu lưu kèm hồ sơ vụ án 01 thẻ nhớ ghi hình:

Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 ; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13, ngày 25/11/2015 của Quốc Hội và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án:

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng.

Nộp tại cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền.

Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tính kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.

Căn cứ Điều 26 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008:

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

214
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 118/2020/HSST ngày 13/08/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:118/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;