TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN PHÚ, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 118/2020/HSST NGÀY 04/09/2020 VỀ TỘI TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ
Ngày 04 tháng 09 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Tân Phú, xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hình sự thụ lý số: 85/2020/HSST ngày 26 tháng 06 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 145/2020/QĐXXST-HS ngày 24/8/2020 đối với bị cáo:
Lê Tuấn K; sinh ngày 02/10/1993; tại Tp. H; thường trú: 55 Nguyễn S, phường Tân Q, quận T, Tp. H; nơi cư trú: 36/4 ấp 5, xã Đ, huyện H, Tp. H; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Anh T và bà Nguyễn Thu H; có vợ.
Tiền án, tiền sự: không.
Tạm giữ: 10/04/2020 - Có mặt.
Người bị hại:
- Ông Nguyễn Ngọc Hữu C, sinh 1981(vắng mặt) Cư trú: 192/34 PH, phường PH, quận T, Tp. H.
- Luật sư bào chữa chỉ định cho bị cáo Lê Tuấn K có ông Nguyễn Quốc T, luật sư của Văn phòng luật sư Công ty luật TNHH IAM thuộc đoàn luật sư Thành Phố Hồ Chí Minh.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Hữu Ngọc C và Lê Thị N quen biết nhau qua mạng Internet nên hẹn tối ngày 20/8/2011 gặp nhau đi chơi. Khoảng 18 giờ cùng ngày, C điều khiển xe gắn máy Airblade biển số: 51L8-5555 đến tiệm Internet “Không gian ảo” trên đường S và chở Ngọc đi lòng vòng chơi, đến khoảng 19 giờ 20 phút thì trời mưa nên C và N thuê khách sạn “Bảo H” số 171 Lê T, phường S, quận T rồi gửi xe và thuê phòng 303 để nghỉ. Khi lên phòng, C để chìa khóa và thẻ xe trên bàn rồi nghe điện thoại, lợi dụng sơ hở N đã lén lút lấy chìa khóa và thẻ giữ xe của C bỏ vào túi quần đồng thời nói với C là đi xuống quầy tiếp tân để đổi chai nước uống. Sau đó, N ra bãi giữ xe đưa thẻ xe cho nhân viên khách sạn và lấy trộm xe gắn máy của C.
Sau khi lấy được chiếc xe biển số 51L8-5555 N đã điện thoại hẹn gặp Lê Tuấn K tại trước cổng trường T, phường T, quận T. Tại đây, N đã kể vụ việc lấy trộm xe cho K biết và nhờ K tiêu thụ xe dùm đồng thời N mở cốp xe trên và phát hiện bên trong có số tiền 3.000.000 đồng. Đến sáng ngày 26/8/2011, K điều khiển xe máy trên chở N đến tiệm sửa xe (chưa rõ địa chỉ) để thay đổi biển số giả (chưa xác định biển số, K khai biển số giả là do nhặt được trên đường đi), riêng biển số 51L8-5555 K khai đã vứt bỏ trên đường đi (không nhớ rõ địa chỉ). Sau đó, K gọi điện thoại cho Hà Nam N nhờ tiêu thụ xe với giá 5.000.000 đồng, N đồng ý.
Đến khoảng 17 giờ ngày 27/8/2011, N gọi điện thoại hỏi K về nguồn gốc xe gắn máy trên thì được biết là xe do Lê Thị N lấy trộm được mà có nên N nhờ H (chưa rõ lai lịch) tìm người mua xe dùm. Khoảng 18h30 cùng ngày H điện thoại cho N giới thiệu Nguyễn Trà M mua xe và hẹn gặp tại quán cà phê trên đường M, quận B. Sau đó, N điều khiển xe gắn máy trên đến điểm hẹn và bán với giá 5.900.000 đồng. Mặc dù biết xe do phạm tội mà có nhưng M vẫn đồng ý mua. Sau khi bán được xe, N trả công cho H 300.000 đồng và đưa cho K 5.000.000 đồng (hiện K và N đã tiêu xài hết số tiền này), số tiền còn lại là 600.000 đồng N giữ tiêu xài cá nhân hết. Đến ngày 29/8/2011, M đã bán xe gắn máy trên cho một người tên T (chưa rõ lai lịch) với giá 8.000.000 đồng. Sau đó, anh Nguyễn Hữu Ngọc C đến Công an phường trình báo.
Quá trình điều tra, Lê Tuấn K bỏ trốn nên Cơ quan điều tra đã ra Lệnh truy nã. Ngày 10/4/2020, Công an xã K, huyện C, tỉnh T đã bắt được Lê Tuấn K.
Tại Cơ quan điều tra, Lê Tuấn K đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên.
Theo bản kết luận định giá tài sản số 119/KL-HDĐGTS-TTHS ngày 17/10/2011 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự quận Tân Phú, 01 xe gắn máy hiệu Honda Airblade biển số 51L8-5555 trị giá 24.000.000 đồng.
Ngày 27/3/2012 Tòa án nhân dân quận Tân Phú xử phạt bị cáo Nguyễn Trà M 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thủ thách là 18 tháng tính từ ngày Tòa tuyên án và bị cáo Hà Nam N 09 tháng tù về tội "Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có". Đồng thời bản án còn buộc bị cáo Hà Nam N và Nguyễn Trà M, mỗi bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường số tiền 12.000.000 đồng cho anh Nguyễn Hữu Ngọc C.
Ngày 20/12/2012 Tòa án nhân dân quận Tân Phú xử phạt bị cáo Lê Thị N về tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản".
Các vấn đề về dân sự và tang vật đã được giải quyết trong bản án trước. Tại bản cáo trạng số 86/CT-VKSQTP ngày 05 tháng 06 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Phú đã truy tố bị cáo Lê Tuấn K về tội: "Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có" theo khoản 1 Điều 250 Bộ luật hình sự năm 1999 Tại phiên Tòa:
- Sau khi kết thúc phần thủ tục xét hỏi, Đại diện viện kiểm sát nhân dân quận Tân Phú giữ quyền công tố và kiểm sát xét xử tại phiên tòa, phát biểu ý kiến giữ nguyên quan điểm như nội dung bản cáo trạng đã truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng Lê Tuấn K về tội: "Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có" theo khoản 1 Điều 250 bộ luật hình sự năm 1999; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Khoản 1 Điều 101 Bộ luật hình sự 2015, đề nghị xử phạt bị cáo Lê Tuấn K từ 09 tháng tù đến 18 tháng tù.
- Luật sư bào chữa chỉ định cho bị cáo K trình bày ý kiến bằng bản bảo vệ cho bị cáo: Về tội danh thống nhất với cáo trạng truy tố, về các tình tiết giảm nhẹ bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thành khẩn khai báo ăn năn hối cải, bị cáo phạm tội ở độ tuổi chưa đủ 18 tuổi do đó đề nghị xử phạt bị cáo bằng với mức tạm giam để trả tự do cho bị cáo tại phiên tòa.
- Bị cáo thống nhất v ớ i tội danh và khung hình phạt như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Phú đã truy tố, không có oan sai, không có ý kiến tranh luận, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử, xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án. Điều tra viên, Kiểm sát viên, khi thực hiện hành vi cũng như ban hành các Quyết định tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác, không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong vụ án này đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Xét lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Qua đó đã có đủ cơ sở để xác định: Lê Thị N lừa đảo chiếm đoạt xe gắn máy Airblade biển số: 51L8-5555 của Nguyễn Hữu Ngọc C sau đó nhờ Lê Tuấn K tiêu thụ xe với giá 5.000.000 đồng và cho K biết xe là do N lừa đảo mà có, K đồng ý, K nhờ Hà Nam N bán xe cho Nguyễn Trà M với giá 5.900.000 đồng. Mặc dù biết xe do phạm tội mà có nhưng My vẫn đồng ý mua với giá 5.000.000 đồng (hiện K và N đã tiêu xài hết số tiền này). Sau đó, anh Nguyễn Hữu Ngọc C đến Công an phường trình báo. Lê Thị N đã bị bản án 70/2012/HSST ngày 27/03/2012 của Tòa án nhân dân quận Tân Phú về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, riêng K bỏ trốn và bị truy nã.
Vì vậy đã có đủ căn cứ kết luận bị cáo Lê Tuấn K về tội: "Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có" theo khoản 1 Điều 250 Bộ luật hình sự năm 1999 là có cơ sở, đúng pháp luật.
[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất trật tự trị an xã hội. Bản thân bị cáo nhận thức được hành vi mua bán tài sản do người khác phạm tội mà có là vi phạm pháp luật, nhưng xuất phát từ động cơ muốn có tiền tiêu xài mà không muốn bỏ sức lao động nên bị cáo đã cố ý phạm tội. Hội đồng xét xử xét thấy cần phải có mức án nghiêm khắc tương xứng, mới có tác dụng răn đe giáo dục đối với bị cáo và đảm bảo công tác phòng ngừa chung trong xã hội.
Về nhân thân:
Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội, xét tại phiên tòa bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năm hối cải, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, ngoài ra khi phạm tội bị cáo chưa đủ 18 tuổi (bị cáo sinh ngày 02/10/1993 ngày phạm tội 29/8/2011 nên ngày 02/10/2011 đủ 18 tuổi) do đó cần áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ người phạm tội dưới 18 tuổi cho bị cáo, nên áp dụng các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo theo điểm i, s khoản 1 Điều 51, Khoản 1 Điều 101 Bộ luật Hình sự năm 2015.
[4] Về dân sự:
Đã được giải quyết theo bản án 70/2012/HSST ngày 27/03/2012 của Tòa án nhân dân quận Tân Phú.
[5] Về xử lý vật chứng.
Đã được giải quyết theo bản án 70/2012/HSST ngày 27/03/2012 của Tòa án nhân dân quận Tân Phú.
[6] Án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ nêu trên,
QUYẾT ĐỊNH
[1] Tuyên bố bị cáo Lê Tuấn K phạm tội: "Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có".
-Áp dụng khoản 1 Điều 250 Bộ luật hình sự năm 1999; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Khoản 1 Điều 101 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Lê Tuấn K 09(chín) tháng tù, Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, ngày 10 tháng 04 năm 2020.
[2] Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Buộc bị cáo K phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
[3] Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hoặc niêm yết bản án.
Bản án 118/2020/HSST ngày 04/09/2020 về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
Số hiệu: | 118/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Tân Phú - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 04/09/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về