Bản án 118/2020/HS-ST ngày 03/07/2020 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BẾN CÁT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 118/2020/HS-ST NGÀY 03/07/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 03 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 111/2020/TLST-HS ngày 03 tháng 6 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 125/2020/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 6 năm 2020, đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Văn D, sinh năm 1978 tại tỉnh T; hộ khẩu thường trú: Khu phố 5, phường M, thị xã B, tỉnh B; nghề nghiệp: Tài xế; trình độ học vấn: Không biết chữ; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Văn R (đã chết) và bà Dương Thị M, sinh năm 1950; có vợ là Nguyễn Thị T, sinh năm 1985; có 02 con, lớn nhất sinh năm 2001, nhỏ nhất sinh năm 2012.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị bắt quả tang, tạm giữ tại Nhà tạm giữ Công an thị xã Bến Cát từ ngày 22/02/2020 đến ngày 02/3/2020, được tại ngoại để điều tra cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Huỳnh Giang N, sinh năm: 1977 tại tỉnh K; hộ khẩu thường trú: Ấp C, xã L, huyện B, tỉnh B; nghề nghiệp: Tài xế; trình độ học vấn: 8/12; quốc tịch:

Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Huỳnh Văn H, sinh năm 1948 và bà Du Thị Kim L, sinh năm 1950; có 02 con, lớn nhất sinh năm 2000, nhỏ nhất sinh năm 2006.

Tiền án, tiền sự: Không.

3. Nguyễn Thanh T, sinh năm 1975 tại tỉnh B; hộ khẩu thường trú: Ấp L, xã L, huyện B, tỉnh B; nghề nghiệp: Thợ mộc; trình độ học vấn: 4/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1949 và bà Trần Thị M, sinh năm 1954.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị bắt quả tang, tạm giữ tại Nhà tạm giữ Công an thị xã Bến Cát từ ngày 22/02/2020 đến ngày 02/3/2020, được tại ngoại để điều tra cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

4. Nguyễn Minh K (tên gọi khác: A X), sinh năm 1989 tại tỉnh B; hộ khẩu thường trú: Khu phố 5, phường M, thị xã B, tỉnh B; nghề nghiệp: Tài xế; trình độ học vấn: 12/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Anh D, sinh năm 1959 và bà Phạm Thị Thúy N, sinh năm 1962; có vợ là Nguyễn Thị Thanh L, sinh năm 1989; có 02 con, lớn nhất sinh năm 2013, nhỏ nhất sinh năm 2018.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị bắt quả tang, tạm giữ tại Nhà tạm giữ Công an thị xã Bến Cát từ ngày 22/02/2020 đến ngày 02/3/2020, được tại ngoại để điều tra cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

5. Nguyễn Văn T, sinh năm 1981 tại tỉnh B; hộ khẩu thường trú: Ấp L, xã L, huyện B, tỉnh B; nghề nghiệp: Phụ giúp gia đình; trình độ học vấn: 4/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1942 và bà Nguyễn Thị X (đã chết); có vợ là Nguyễn Thị Hồng N, sinh năm 1983; có 02 con, lớn nhất sinh năm 2003, nhỏ nhất sinh năm 2012.

Tiền án, tiền sự: không Bị bắt quả tang, tạm giữ tại Nhà tạm giữ Công an thị xã Bến Cát từ ngày 22/02/2020 đến ngày 02/3/2020, được tại ngoại để điều tra cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

6. Phạm Duy B, sinh năm 1979 tại tỉnh T; hộ khẩu thường trú: Ấp Đ, xã L, huyện B, tỉnh B; nghề nghiệp: Thợ hàn; trình độ học vấn: 9/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Phạm Ngọc L, sinh năm 1947 và bà Phạm Thị S, sinh năm 1955; có vợ là Nguyễn Thị Diễm H, sinh năm 1979; có 02 con, lớn nhất sinh năm 2005, nhỏ nhất sinh năm 2019.

Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân:

- Ngày 15/7/2013, bị Tòa án nhân dân huyện Bến Cát (nay là thị xã Bến Cát) xử phạt 12.000.000 đồng về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 248 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009 với số tiền đánh bạc là 4.751.000 đồng theo Bản án số 136/2013/HSST, đã chấp hành xong.

- Có cha ruột là ông Phạm Ngọc L được thưởng Huân chương chiến sĩ giải phóng hạng Nhì.

7. Lã Đỗ Quốc H, sinh năm 1988 tại tỉnh B; hộ khẩu thường trú: Khu phố 1, phường M, thị xã B, tỉnh B; nghề nghiệp: Kinh doanh; trình độ học vấn: 8/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Lã Văn T (đã chết) và bà Đỗ Thị Thủy V, sinh năm 1958; có vợ là Đoàn Thị Trúc G, sinh năm 1990; có 02 con, lớn nhất sinh năm 2016, nhỏ nhất sinh năm 2018.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo được tại ngoại để điều tra. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

8. Đinh Thành H (tên gọi khác: H), sinh năm 1977 tại tỉnh B; hộ khẩu thường trú: Tổ 8, khu phố 5, phường M, thị xã B, tỉnh B; nghề nghiệp: Chạy xe ôm; trình độ học vấn: 6/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo:

Không; con bà Đinh Thị N (đã chết); có vợ là Lê Thị Bình M, sinh năm 1980; có 02 con, lớn nhất sinh năm 2003, nhỏ nhất sinh năm 2006.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo được tại ngoại để điều tra. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người làm chứng:

1. Ông Bùi Thái D, vắng mặt.

2. Bà Nguyễn Thị Thu M, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 11 giờ 00 phút, ngày 22/02/2020, Công an phường M, kiểm tra, phát hiện và bắt quả tang các đối tượng gồm: Nguyễn Văn D, Huỳnh Giang N, Nguyễn Thanh T, Nguyễn Minh K, Nguyễn Văn T và Phạm Duy B đang đánh bạc dưới hình thức lắc bầu cua thắng thua bằng tiền tại nhà của bà Nguyễn Thị Thu M ở số 297 thuộc Khu phố 2, phường M, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương.

Vật chứng thu giữ:

- Tiền trên chiếu bạc: 10.200.000 đồng.

- 01 Tờ giấy (kích thước: 65 x 43cm) in hình con nai, trái bầu, con gà, con cá, con cua, con tôm.

- 03 Hột hình khối vuông, mỗi hột có 06 mặt có in hình con nai, trái bầu, con gà, con cá, con cua, con tôm.

- 01 Cái mâm bằng kim loại, đường kính 25 cm.

- 01 Cái nắp hình trụ tròn bằng giấy.

- Tiền mặt 290.000 đồng của Phạm Duy B.

- Tiền mặt 12.100.000 đồng và 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A70, màu xanh-đen của Bùi Thái D.

Galaxy Note 9, màu xanh đen của Nguyễn Văn D.

- Tiền mặt 8.240.000 đồng của Nguyễn Văn T.

- Tiền mặt 47.800.000 đồng và 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy S10 Plus, màu xanh của Huỳnh Giang N.

- 01 Điện thoại di động hiệu Iphone XS Max của Nguyễn Thị Thu Mỹ.

- Tiền mặt 1.000.000 đồng của Nguyễn Thanh T.

- Tiền mặt 790.000 đồng của Nguyễn Minh K.

- Tiền mặt 300.000 đồng của Đinh Thành H.

Tại cơ quan điều tra, các đối tượng đã khai nhận như sau:

Vào khoảng 09 giờ, ngày 22/02/2020, Nam đến quán cà phê Happy thuộc khu phố 2, phường M, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương để uống cà phê cùng Tùng, Tiến, Khanh, Lã Đỗ Quốc H, Đinh Thành H và Nguyễn Thị Thu Mỹ. Tại đây, Nam nói “đến nhà chị Mỹ ăn cơm và chơi bầu cua” thì cả nhóm đồng ý và cùng đi đến nhà bà M thuộc khu phố 2, phường Mỹ Phước, thị xã Bến Cát, cách quán cà phê khoảng 300m. Lúc này, N dùng điện thoại hiệu Samsung Galaxy S10 Plus, màu xanh gọi vào điện thoại động hiệu Samsung Galaxy Note 9, màu xanh đen cho D, rủ D đến nhà bà Mỹ để đánh bạc, D đồng ý. Khi đi, D mang theo 01 bộ Bầu Cua. Các đối tượng tham gia đánh bạc với D gồm có N, T, T, K, B, H. M không có tham gia đánh bạc, khi cả nhóm đánh được khoảng 15 phút thì H đến cùng tham gia.

Hình thức tham gia đánh bạc lắc Bầu Cua thắng thua bằng tiền như sau: D quy định mức đặt cược từ 50.000 đồng cho đến 600.000 đồng một ván. D chuẩn bị bộ lắc bầu cua gồm 03 hột (mỗi hột có 6 mặt, mỗi mặt có các hình: bầu, cua, tôm, cá, gà, nai), một nắp đậy (hình trụ bằng giấy), một dĩa bằng nhôm và một tờ giấy lịch có hình bầu, cua, tôm, cá, gà, nai để các đối tượng tham gia đánh bạc đặt tiền. Sau khi chuẩn bị xong, D bỏ 03 hột bầu cua vào đĩa lắc một cái để các đối tượng tham gia đánh bạc đặt tiền vào hình trên tờ lịch mình lựa chọn. Khi đặt tiền xong, D mở nắp ra xem và tính thắng thua. Nếu người tham gia đặt trúng hình trong ba hột bầu cua mặt trên cùng, thì người tham gia thắng số tiền tương ứng với số tiền đã đặt. Còn nếu không trúng thì nhà cái thắng. Nếu mở nắp ra mà có ba con giống nhau như (bầu) thì nhà cái phải chung tiền gấp 3 lần số tiền người tham gia đặt. Tỷ lệ đặt cược là 1:1. Có 2 cách đặt tiền đặt chánh 01 con, đặt khe là hai con như (bầu, cua).

Cả nhóm đánh bạc cho đến khoảng 11 giờ cùng ngày thì bị Công an bắt quả tang. Hi và H bỏ chạy thoát. Ngày 25/02/2020, H ra đầu thú. Ngày 01/3/2020, H ra đầu thú.

Vai trò và số tiền thắng thua của từng đối tượng tham gia như sau:

- Nguyễn Văn D khi tham gia đánh bạc mang theo số tiền 30.800.000 đồng.

D lấy ra 4.800.000 đồng để đánh bạc với vai trò làm cái. Còn lại 26.000.000 đồng không sử dụng để đánh bạc. Khi bị bắt D thua 1.700.000 đồng, còn lại 3.100.000 đồng bị thu giữ trong tiền tang và bị Công an thu giữ 26.000.000 đồng trong túi quần. Số tiền dùng để đánh bạc của D là 4.800.000 đồng.

- Huỳnh Giang N khi tham gia đánh bạc mang theo số tiền 47.000.000 đồng, N lấy ra 1.000.000 đồng để đánh bạc với vai trò tụ con. Còn lại 46.000.000 đồng N để trong túi quần. Nếu trong lúc đánh bạc thua hết 1.000.000 đồng ban đầu thì N sẽ lấy thêm 1.000.000 đồng nữa ra để tiếp tục đánh bạc. Khi bị bắt N thắng 800.000 đồng, bị thu giữ số tiền 47.800.000 đồng trong túi quần của N, trong đó có 2.800.000 đồng sử dụng để đánh bạc. Số tiền dùng để đánh bạc của N là 2.800.000 đồng.

- Nguyễn Thanh T mang theo số tiền 1.800.000 đồng để tham gia đánh bạc. Khi bị bắt T thua số tiền 800.000 đồng còn lại 1.000.000 đồng T để trong túi bị thu giữ. Số tiền dùng để đánh bạc của T là 1.800.000 đồng.

- Nguyễn Minh K mang theo số tiền 790.000 đồng để tham gia đánh bạc. Khi Công an bắt quả tang thì K thắng số tiền 2.100.000 đồng bị Công an thu giữ trong tiền tang và bị thu giữ số tiền 790.000 đồng trong túi quần của K. Số tiền dùng để đánh bạc của K là 2.890.000 đồng.

- Nguyễn Văn T khi tham gia đánh bạc mang theo số tiền 8.840.000 đồng, T lấy ra 1.340.000 đồng để tham gia đánh bạc. Còn lại 7.500.000 đồng không sử dụng để đánh bạc. Khi bị Công an bắt quả tang T thua 600.000 đồng, bị Công an thu giữ 8.240.000 đồng trong túi quần, trong đó có 740.000 đồng dùng để đánh bạc. Số tiền dùng để đánh bạc của T là 1.340.000 đồng.

- Phạm Duy B khi tham gia đánh bạc mang theo số tiền 990.000 đồng, B lấy ra 700.000 đồng để đánh bạc, còn lại 290.000 đồng không sử dụng để đánh bạc. Khi bị bắt B thua hết 700.000 đồng, bị thu giữ 290.000 đồng trong túi quần. Số tiền dùng để đánh bạc của B là 700.000 đồng.

- Lã Đỗ Quốc H khi tham gia đánh bạc mang theo số tiền 430.000 đồng để đánh bạc, khi bị bắt thua số tiền 200.000 đồng còn lại 230.000 đồng cầm trên tay khi Công an vào bắt thì H sợ nên đã ném lại chiếu bạc rồi bỏ chạy thoát. Số tiền dùng để đánh bạc của H là 430.000 đồng.

- Đinh Thành H mang theo số tiền 600.000 đồng để đánh bạc. Khi Công an vào bắt quả tang thì H thua 300.000 đồng còn lại 300.000 đồng đang cầm trên tay do sợ bị bắt nên H bỏ chạy và bỏ 300.000 đồng vào túi quần. Số tiền dùng để đánh bạc của H là 600.000 đồng.

Số tiền trên người của các đối tượng dùng để đánh bạc là: 2.800.000 đồng + 1.000.000 đồng +790.000 đồng +740.000 đồng +300.000 đồng = 5.630.000 đồng.

Như vậy tổng số tiền mà các đối tượng đánh bạc là: 10.200.000 đồng + 5.630.000 đồng = 15.830.000 đồng.

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Văn D, Huỳnh Giang N, Nguyễn Thanh T, Nguyễn Minh K, Nguyễn Văn T, Phạm Duy B, Lã Đỗ Quốc H và Đinh Thành H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai và biên bản hỏi cung phù hợp với chứng cứ thu thập được trong hồ sơ vụ án.

Ngoài ra, quá trình bắt quả tang, lực lượng công an còn thu giữ 12.100.000 đồng và 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A70, màu xanh đen của Bùi Thái D.Quá trình điều tra xác định D không tham gia đánh bạc nên cơ quan điều tra không tiến hành xử lý.

Đi với những tài liệu, đồ vật không liên quan đến vụ án, ngày 01/5/2020, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Bến Cát ra Quyết định xử lý vật chứng giao trả cho các chủ sở hữu hợp pháp. Các chủ sở hữu đã nhận lại tài sản và không có ý kiến gì.

Tại bản Cáo trạng số 123/CT-VKSBC ngày 01/6/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương truy tố các bị cáo Nguyễn Văn D, Huỳnh Giang N, Nguyễn Thanh T, Nguyễn Minh K, Nguyễn Văn T, Phạm Duy B, Lã Đỗ Quốc H và Đinh Thành H về tội: “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát trong phần tranh luận tại phiên tòa, giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo. Đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017:

+ Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn D số tiền từ 35.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng;

+ Xử phạt bị cáo Huỳnh Giang N số tiền từ 35.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng;

+ Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh T số tiền từ 30.000.000 đồng đến 35.000.000 đồng;

+ Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh K số tiền từ 35.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng;

+ Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T số tiền từ 30.000.000 đồng đến 35.000.000 đồng;

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017:

+ Xử phạt bị cáo Phạm Duy B từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng cải tạo không giam giữ, xử phạt bổ sung số tiền từ 15.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng;

+ Xử phạt bị cáo Lã Đỗ Quốc H số tiền từ 25.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng;

+ Xử phạt bị cáo Đinh Thành H số tiền từ 25.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng.

- Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

+ Tuyên tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền thu giữ trên người của các bị cáo dùng để đánh bạc và số tiền thu giữ trên chiếu bạc tổng cộng là 15.830.000 đồng.

+ Tuyên quản thủ để đảm bảo cho việc thi hành án đối với số tiền: 26.000.000 đồng thu giữ của bị cáo Nguyễn Văn D; 45.000.000 đồng thu giữ của bị cáo Huỳnh Giang N; 7.500.000 đồng thu giữ của bị cáo Nguyễn Văn T; 290.000 đồng thu giữ của bị cáo Phạm Duy B.

+ Tuyên tịch thu nộp ngân sách nhà nước: 01 Điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy Note 9, màu xanh đen; 01 Điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy S10 Plus, màu xanh.

+ Tuyên tịch thu tiêu hủy: 01 Tờ giấy (kích thước: 65 x 43cm) in hình con nai, trái bầu, con gà, con cá, con cua, con tôm; 03 Hột hình khối vuông, mỗi hột 06 mặt có in hình con nai, trái bầu, con gà, con cá, con cua, con tôm; 01 Cái mâm bằng kim loại, đường kính 25 cm; 01 Cái nắp hình trụ tròn bằng giấy.

Tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi đúng như nội dung Cáo trạng truy tố, có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Các bị cáo không có tranh luận gì với đại diện Viện Kiểm sát và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Bến Cát, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã đảm bảo thực hiện đúng và đầy đủ.

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo:

Tại phiên tòa các bị cáo Nguyễn Văn D, Huỳnh Giang N, Nguyễn Thanh T, Nguyễn Minh K, Nguyễn Văn T, Phạm Duy B, Lã Đỗ Quốc H và Đinh Thành H đã khai nhận: Vào lúc 11 giờ 00 phút, ngày 22/02/2020, tại nhà số 297 thuộc Khu phố 2, phường M, thị xã Bến Cát, các bị cáo gồm: Nguyễn Văn D, Huỳnh Giang N, Nguyễn Thanh T, Nguyễn Minh K, Nguyễn Văn T, Phạm Duy B, Lã Đỗ Quốc H và Đinh Thành H đã có hành vi đánh bạc trái phép thắng thua bằng tiền dưới hình thức lắc bầu cua, với tổng số tiền dùng để đánh bạc là 15.830.000 đồng thì bị bắt quả tang. Trong đó: Số tiền dùng để đánh bạc của bị cáo D là 4.800.000 đồng; của bị cáo N là 2.800.000 đồng; của bị cáo T là 1.800.000 đồng; của bị cáo K là 2.890.000 đồng; của bị cáo T là 1.340.000 đồng;

ca bị cáo B là 700.000 đồng; của bị cáo H là 430.000 đồng và của bị cáo H là 600.000 đồng.

Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Xét các bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Về nhận thức, các bị cáo hoàn toàn hoàn toàn biết hành vi đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền là vi phạm pháp luật nhưng vì lòng tham lam, tư lợi nên các bị cáo đã cố tình thực hiện. Hành vi đánh bạc bằng hình thức lắc bầu cua thắng thua bằng tiền của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm hại trực tiếp đến tình hình an ninh, trật tự công cộng tại địa phương, đánh bạc còn là nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn xã hội khác.

Hành vi của các bị cáo Nguyễn Văn D, Huỳnh Giang N, Nguyễn Thanh T, Nguyễn Minh K, Nguyễn Văn T, Phạm Duy B, Lã Đỗ Quốc H và Đinh Thành H đã đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự.

Như vậy, bản Cáo trạng số 123/CT-VKS ngày 01/6/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát và kết luận của Kiểm sát viên đề nghị truy tố các bị cáo Nguyễn Văn D, Huỳnh Giang N, Nguyễn Thanh T, Nguyễn Minh K, Nguyễn Văn T, Phạm Duy B, Lã Đỗ Quốc H và Đinh Thành H về tội: “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[3.1] Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[3.2] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, các bị cáo đều có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Các bị cáo D, N, T, K, T, H và H phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo B có cha là người có công với cách mạng theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Do đó cần xem xét để giảm nhẹ một phần hình phạt cho từng bị cáo.

[4] Về nhân thân: Bị cáo Phạm Duy B có nhân thân xấu: Ngày 15/7/2013, bị Tòa án nhân dân huyện Bến Cát (nay là thị xã Bến Cát) xử phạt 12.000.000 đồng về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 248 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009, với số tiền đánh bạc là 4.751.000 đồng theo Bản án số 136/2013/HSST, đã chấp hành xong.

[5] Xét về tính chất và mức độ phạm tội: Các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với vai trò đồng phạm giản đơn, trong đó bị cáo Huỳnh Giang N là người đề xuất việc đánh bạc, bị cáo Nguyễn Văn D là người chuẩn bị công cụ để đánh bạc, các bị cáo khác cùng nhau thực hiện hành vi phạm tội.

Do đó, Hội đồng xét xử cần xử phạt các bị cáo một mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của từng bị cáo nhằm răn đe, giáo dục cho các bị cáo trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội và phòng ngừa chung.

[6] Xét thấy các bị cáo đã nhận thức được hành vi phạm tội của mình và có nhiều tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Các bị cáo đều có nơi cư trú rõ ràng. Do đó Hội đồng xét xử thấy không cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội mà chỉ cần áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ, bổ sung hình phạt tiền đối với bị cáo Phạm Duy B; áp dụng hình phạt tiền đối với các bị cáo còn lại là đã đủ sức răn đe, giáo dục các bị cáo trở thành người tốt, sống có ích cho xã hội.

[7] Xét đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát về mức hình phạt đối với các bị cáo là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Đối với hành vi dùng nhà, chỗ ở của mình để chứa bạc của Nguyễn Thị Thu M. Ngày 02/5/2020 Công an thị xã Bến Cát ra Quyết định xử phạt vi phạm vi phạm hành chính số 54/QĐ-XPHC-ĐTTH xử phạt bà M số tiền 7.500.000 đồng là phù hợp.

[9] Về biện pháp tư pháp:

- Đối với số tiền thu giữ trên chiếu bạc là 10.300.000 đồng và số tiền thu giữ trên người của các bị cáo dùng vào việc đánh bạc là 5.630.000 đồng, tổng cộng là 15.830.000 đồng. Xét đây là tiền các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Đối với: 01 Điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy S10 Plus, màu xanh thu giữ của bị cáo Huỳnh Giang N và 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy Note 9, màu xanh đen thu giữ của bị cáo Nguyễn Văn D. Xét đây là tài sản bị cáo N và bị cáo D sử dụng làm phương tiện liên lạc để phục phụ cho việc phạm tội nên cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Đối với các vật chứng gồm: 01 Tờ giấy (kích thước: 65 x 43cm) in hình con nai, trái bầu, con gà, con cá, con cua, con tôm; 03 hột hình khối vuông, mỗi hột 06 mặt có in hình con nai, trái bầu, con gà, con cá, con cua, con tôm; 01 cái mâm bằng kim loại, đường kính 25 cm; 01 cái nắp hình trụ tròn bằng giấy. Xét đây là công cụ các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội, không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Đối với các khoản tiền không sử dụng vào việc phạm tội thu giữ trên người của các bị cáo gồm: 26.000.000 đồng thu giữ của bị cáo D, 45.000.000 đồng thu giữ của bị cáo N, 7.500.000 đồng thu giữ của bị cáo T và 290.000 đồng thu giữ của bị cáo B. Xét đây là tài sản các bị cáo mang theo trên người nhưng không có căn cứ xác định các bị cáo sử dụng số tiền này vào việc phạm tội nên cần giao trả lại cho các bị cáo. Tuy nhiên, cần quản thủ một phần số tiền trên để đảm bảo cho việc thi hành án của từng bị cáo.

- Đối với số tiền mặt 12.100.000 đồng và 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A70, màu xanh đen của thu giữ Bùi Thái D; 01 điện thoại di động hiệu Iphone XS Max của Nguyễn Thị Thu M. Xét đây là tài sản không liên quan đến việc phạm tội. Cơ quan cảnh sát điều tra đã giao trả lại tài sản trên cho ông D và bà M là phù hợp.

[10] Về án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn D, Huỳnh Giang N, Nguyễn Thanh T, Nguyễn Minh K, Nguyễn Văn T, Phạm Duy B, Lã Đỗ Quốc H và Đinh Thành H phạm tội: “Đánh bạc”.

2. Về điều khoản áp dụng và mức hình phạt:

Áp dụng Điều 136, Điều 260, khoản 1 Điều 268, Điều 269 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017:

+ Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn D số tiền 35.000.000 đồng (ba mươi lăm triệu đồng).

+ Xử phạt bị cáo Huỳnh Giang N số tiền 35.000.000 đồng (ba mươi lăm triệu đồng).

+ Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh T số tiền 30.000.000 đồng (ba mươi triệu đồng).

+ Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh K số tiền 32.000.000 đồng (ba mươi hai triệu đồng).

+ Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T số tiền 30.000.000 đồng (ba mươi triệu đồng).

+ Xử phạt bị cáo Lã Đỗ Quốc H số tiền 25.000.000 đồng (hai mươi lăm triệu đồng).

+ Xử phạt bị cáo Đinh Thành H số tiền 25.000.000 đồng (hai mươi lăm triệu đồng).

- Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017: Xử phạt bị cáo Phạm Duy B 01 (một) năm cải tạo không giam giữ.

Giao bị cáo Phạm Duy B cho Ủy ban nhân dân xã L, huyện B, tỉnh B phối hợp với gia đình giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ được tính kể từ ngày Ủy ban nhân dân xã L, huyện B, tỉnh B nhận được Bản án và Quyết định thi hành án, được khấu trừ thời hạn tạm giữ từ ngày 22/02/2020 đến ngày 02/3/2020.

Trong trường hợp người chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về Thi hành án hình sự.

Phạt bổ sung bị cáo Phạm Duy B số tiền 15.000.000 đồng (mười lăm triệu đồng).

3. Về biện pháp ngăn chặn: Căn cứ điểm d khoản 1 Điều 125 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tuyên:

- Hủy bỏ biện pháp ngăn chặn đối với bị cáo Nguyễn Văn D theo lệnh Cấm đi khỏi nơi cư trú số 25/2020/HSST-LCCT ngày 03/6/2020 của Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương.

- Hủy bỏ biện pháp ngăn chặn đối với bị cáo Huỳnh Giang N theo lệnh Cấm đi khỏi nơi cư trú số 26/2020/HSST-LCCT ngày 03/6/2020 của Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương.

- Hủy bỏ biện pháp ngăn chặn đối với bị cáo Nguyễn Thanh T theo lệnh Cấm đi khỏi nơi cư trú số 27/2020/HSST-LCCT ngày 03/6/2020 của Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương.

- Hủy bỏ biện pháp ngăn chặn đối với bị cáo Nguyễn Minh K theo lệnh Cấm đi khỏi nơi cư trú số 28/2020/HSST-LCCT ngày 03/6/2020 của Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương.

- Hủy bỏ biện pháp ngăn chặn đối với bị cáo Nguyễn Văn T theo lệnh Cấm đi khỏi nơi cư trú số 29/2020/HSST-LCCT ngày 03/6/2020 của Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương.

- Hủy bỏ biện pháp ngăn chặn đối với bị cáo Phạm Duy B theo lệnh Cấm đi khỏi nơi cư trú số 30/2020/HSST-LCCT ngày 03/6/2020 của Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương.

- Hủy bỏ biện pháp ngăn chặn đối với bị cáo Lã Đỗ Quốc H theo lệnh Cấm đi khỏi nơi cư trú số 31/2020/HSST-LCCT ngày 03/6/2020 của Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương.

- Hủy bỏ biện pháp ngăn chặn đối với bị cáo Đinh Thành H theo lệnh Cấm đi khỏi nơi cư trú số 32/2020/HSST-LCCT ngày 03/6/2020 của Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương.

4. Về biện pháp tư pháp: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tuyên tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 15.830.000 đồng (mười lăm triệu, tám trăm ba mươi nghìn đồng).

- Tuyên quản thủ để đảm bảo cho việc thi hành án đối với số tiền:

+ 26.000.000 đồng (hai mươi sáu triệu đồng) thu giữ của bị cáo Nguyễn Văn D;

+ 35.200.000 đồng (ba mươi lăm triệu, hai trăm nghìn đồng) thu giữ của bị cáo Huỳnh Giang N;

+ 7.500.000 đồng (bảy triệu, năm trăm nghìn đồng) thu giữ của bị cáo Nguyễn Văn T;

+ 290.000 đồng (hai trăm chín mươi nghìn đồng) thu giữ của bị cáo Phạm Duy B.

- Tuyên giao trả cho bị cáo Huỳnh Giang N số tiền 9.800.000 đồng (chín triệu, tám trăm nghìn đồng).

(Theo Giấy nộp tiền ngày 02/6/2020 do Công an thị xã Bến Cát nộp vào Tài khoản số 3949.0.1046035 tại Kho bạc Nhà nước thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương).

- Tuyên tịch thu nộp ngân sách nhà nước:

+ 01 Điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy Note 9, màu xanh đen (IMEI357557/06/332042/15/NR58G30EA7PA-bị vỡ màn hình);

+ 01 Điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy S10 Plus, màu xanh (DEC098476327102529700).

- Tuyên tịch thu tiêu hủy:

+ 01 Tờ giấy (kích thước: 65 x 43cm) in hình con nai, trái bầu, con gà, con cá, con cua, con tôm;

+ 03 Hột hình khối vuông, mỗi hột 06 mặt có in hình con nai, trái bầu, con gà, con cá, con cua, con tôm;

+ 01 Cái mâm bằng kim loại, đường kính 25 cm;

+ 01 Cái nắp hình trụ tròn bằng giấy.

(Theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 02/6/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương).

5. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 21, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Các bị cáo Nguyễn Văn D, Huỳnh Giang N, Nguyễn Thanh T, Nguyễn Minh K, Nguyễn Văn T, Phạm Duy B, Lã Đỗ Quốc H và Đinh Thành H, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày Tòa tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

265
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 118/2020/HS-ST ngày 03/07/2020 về tội đánh bạc

Số hiệu:118/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Bến Cát - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;