TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TUYÊN QUANG, TỈNH TUYÊN QUANG
BẢN ÁN 118/2017/HSST NGÀY 07/09/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 07 tháng 9 năm 2017, tại nhà văn hóa tổ S, phường N, thành phố T; Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang mở phiên tòa lưu động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 112/2017/HSST ngày 09 tháng 8 năm 2017 đối với bị cáo:
Trần Phương T, sinh ngày 05/6/1987 tại thành phố T, tỉnh Tuyên Quang; Nơi cư trú: Tổ S, phường N, thành phố T; Trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Dân tộc: Kinh; Con ông: Trần Việt T, sinh năm 1946 và bà: Lâm Thị T, sinh năm 1954; Chồng là Hoàng Hồng C, sinh năm 1986 và có 01 con; Tiền án: Không.
Tiền sự: Ngày 22/7/2016 bị Công an thành phố Tuyên Quang ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính, phạt 1.500.000 đồng về hành vi tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy.
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/6/2017, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang (có mặt).
NHẬN THẤY
Bị cáo Trần Phương T. bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Hồi 16 giờ 45 phút ngày 11/6/2017, tổ công tác đội CSĐT tội phạm về ma túy Công an thành phố Tuyên Quang lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Trần Phương T. về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ 01 túi ni-lon màu trắng có viền đỏ, bên trong có 05 túi ni-lon màu trắng có viền màu xanh, bên trong cả 05 gói đều chứa tinh thể màu trắng, T. khai đó là ma túy đá.
Quá trình điều tra, Trần Phương T. khai nhận bản thân là người nghiện chất ma túy. Khoảng 15 giờ ngày 11/6/2017, T. đi xe taxi hãng Sơn Trang do anh Lê Hoài P. làm tài xế sang khu vực đầu cầu sắt, thị trấn S, huyện S mua 01 gói ma túy đá (trong có 05 gói nhỏ) với số tiền 2.000.000 đồng (hai triệu đồng) của người đàn ông mặc áo mầu xanh (T. không biết tên, tuổi, địa chỉ). Xong T. và P. đi về đến khu vực chân dốc (thuộc tổ M, phường N, thành phố T.) thì gặp tổ công tác đội CSĐT tội phạm về ma túy Công an thành phố Tuyên Quang kiểm tra, đưa T. và P. về trụ sở lập biên bản và thu giữ vật chứng.
Tại Kết luận giám định số 317/ ĐKTHS ngày 13/6/2017 của Phòng KTHS Công an tỉnh Tuyên Quang, kết luận: Số chất tinh thể màu trắng trong 05 gói nhỏ thu giữ của Trần Phương T. là Methamphetamine, là chất ma túy tổng hợp thuộc nhóm ATS; trọng lượng 1,380g (Một phẩy ba tám không gam).
* Tại bản Cáo trạng số 116/QĐ-KSĐT ngày 08 tháng 8 năm 2017, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang đã truy tố bị cáo Trần Phương T. về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý, theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự.
* Tại phiên tòa, kết thúc phần xét hỏi Kiểm sát viên giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Trần Phương T. phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; Áp dụng khoản 1 Điều 194; đoạn 1, 2 điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33 Bộ luật hình sự năm 1999; Khoản 3 Điều 7; khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015; Xử phạt bị cáo Trần Phương T. từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng đến 02 (hai) năm tù.
Ngoài ra, đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xử lý vật chứng, buộc bị cáo phải chịu án phí và tuyên quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của bị cáo.
XÉT THẤY
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Trần Phương T. đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản Cáo trạng đã quy kết. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất.
Hành vi phạm tội của bị cáo còn được thể hiện qua biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Từ các chứng cứ nêu trên có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 16 giờ 15 phút ngày 11/6/2017, tại khu vực tổ 17, phường N, thành phố T; Trần Phương T. đã có hành vi tàng trữ trái phép 1,380g (một phẩy ba tám không gam) Methamphetamine, là chất ma túy tổng hợp thuộc nhóm ATS.
Hành vi của bị cáo Trần Phương T. đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 194 của Bộ luật hình sự.
Hành vi phạm tội của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma tuý, gây mất trật tự trị an tại địa phương và là một trong những nguyên nhân thường gây ra các tội phạm, tệ nạn xã hội khác. Bản thân bị cáo có nhân thân xấu, đã bị xử lý hành chính về hành vi tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy mà không lấy đó làm bài học cải tạo bản thân cai nghiện còn tiếp tục phạm tội về tàng trữ trái phép chất ma túy. Do vậy, cần buộc bị cáo phải chịu mức hình phạt nghiêm nhằm trừng trị, răn đe đối với
Khi lượng hình Hội đồng xét xử cũng thấy rằng quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại đoạn 1, 2 điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự cần áp dụng cho bị cáo để lên mức án phù hợp.
Bị cáo Trần Phương T. bị truy tố, xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 có mức hình phạt từ 02 năm đến 07 năm tù, tuy nhiên tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 thì tội danh “Tàng trữ trái phép chất ma túy” có mức hình phạt từ 01 năm đến 05 năm tù. Tại khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định “Điều luật xóa bỏ một tội phạm, một hình phạt, một tình tiết tăng nặng, quy định một hình phạt nhẹ hơn... thì được áp dụng đối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành”. Do vậy, theo tinh thần Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội về việc thi hành BLHS 2015 và theo nguyên tắc xét xử theo hướng có lợi cho người phạm tội, Hội đồng xét xử thấy cần xử bị cáo mức hình phạt tương đương khung hình phạt theo quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 là phù hợp.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định bị cáo không có tài sản gì có giá trị nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.
Về vật chứng: Cơ quan cảnh sát điều tra thu giữ của bị cáo 05 gói ma túy có trọng lượng 1,380 gam. Sau khi lấy đi giám định số còn lại cùng bao bì được niêm phong trong 1 phong bì có dấu giáp lai của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang. Đây là vật chứng của vụ án thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành, nên cần tịch thu tiêu huỷ.
Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Trần Phương T. và Lê Hoài P, Công an thành phố Tuyên Quang đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính, hình thức phạt tiền, mức phạt 1.000.000 đồng (một triệu đồng) đối với T. và 750.000 đồng (bẩy trăm năm mươi nghìn đồng) đối với P. Do vậy, Hội đồng xét xử không xem xét.
Đối với người đàn ông bán ma túy cho bị cáo tại khu vực đầu cầu S (thị trấn S, huyện S) không xác định được tên, tuổi, địa chỉ nên Cơ quan điều tra không có căn cứ xử lý. Do vậy, Hội đồng xét xử không xem xét.
Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Bị cáo Trần Phương T. phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý".
1. Áp dụng khoản 1 Điều 194; đoạn 1, 2 điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33 Bộ luật hình sự năm 1999; Khoản 3 Điều 7; khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội: Xử phạt bị cáo Trần Phương T. 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (11/6/2017)
2. Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự; Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự:
- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì niêm phong có dấu giáp lai của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang trong có chứa Methamphetamine, là chất ma túy tổng hợp thuộc nhóm ATS (là đối tượng hoàn lại), là tang vật của vụ án thuộc loại nhà nước cấm lưu hành.
(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng ngày 23/8/2017 giữa Công an thành phố Tuyên Quang với Chi cục thi hành án dân sự thành phố Tuyên Quang).
3. Áp dụng các Điều 99, 231, 234 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội:
- Bị cáo Trần Phương T. phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
- Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 118/2017/HSST ngày 07/09/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý
Số hiệu: | 118/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Tuyên Quang - Tuyên Quang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 07/09/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về