Bản án 117/2020/HS-ST ngày 01/12/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN PHÚ, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 117/2020/HS-ST NGÀY 01/12/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 01 tháng 12 năm 2020 tại Tòa án huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai; mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 133/2020/TLST-HS ngày 12 tháng 11 năm 2020, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 133/2020/QĐXXST-HS ngày 19/11/2020, đối với bị cáo:

Nguyễn Ngọc Đ, sinh năm 1993, nơi sinh tại tỉnh Đồng Nai; nơi cư trú tại ấp Thọ Lâm 1, xã Phú Thanh, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa; trình độ văn hóa (học vấn): 5/12:

con ông Nguyễn Văn L (đã chết) và con bà Trần Thị D, sinh năm 1960; bị cáo chung sống như vợ chồng với Nguyễn Thị Kim S, sinh năm 1995, đã có 01 con, sinh năm 2017; nghề nghiệp, tiền án, tiền sự: không; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 27 tháng 8 năm 2020.

- Người làm chứng: Lâm Anh T, sinh năm 1996; nơi cư trú tại ấp Thanh Thọ 3, xã Phú Lâm, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai.

(Bị cáo có mặt tại phiên tòa; người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo nghiện ma túy, cần tiền chi tiêu cá nhân và mua ma túy sử dụng. Bị cáo đã mua ma túy để bán. Bị cáo đã sử dụng điện thoại gọi đến Yên Vũ T (cư trú Phú Trung, Tân Phú, Đồng Nai) để mua ma túy, T hẹn bị cáo đến nhà T mua bán ma túy, bị cáo điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha Taurus biển số 54S5-3337 đến nhà T mua ma túy, sau đó bị cáo đến ngôi nhà hoang trong đường hẻm nhà hàng Ngọc Huyền thuộc xã Phú Xuân, huyện Tân Phú phân lẻ ma túy thành nhiều gói đi bán với người nghiện ma túy.

Từ giữa tháng 7 năm 2020 đến ngày 26/8/2020 bị cáo đã 05 lần mua ma túy của Trường. Bị cáo sử dụng điện thoại di động hiệu Samsung có gắn sim số 0334867776 để liên lạc với người mua ma túy. Khi người nghiện ma túy điện thoại đến thì bị cáo hẹn địa điểm khu vực các xã Phú Xuân, Phú Thanh mua bán ma túy.

Vào khoảng 18 giờ ngày 26/8/2020, bị cáo điều khiển xe mô tô biển số 54S5- 3337 đến nhà T mua 01 gói ma túy giá 1.000.000 đồng về ngôi nhà hoang phân thành 07 gói nhỏ, bị cáo đã bán 06 gói ma túy, còn lại 01 gói cất giấu trong ốp lưng điện thoại nhằm mục đích để bán. Khoảng 22 giờ cùng ngày, bị cáo điều khiển xe mô tô biển số 54S5-3337 đến nhà ông Nguyễn Phước T tại ấp Thọ Lâm, xã Phú Xuân, huyện Tân Phú để chơi thì bị Công an bắt quả tang cùng vật chứng.

Quá điều tra, bị cáo khai đã bán 18 gói ma túy được 3.050.000 đồng với Lâm Anh T (02 lần 02 gói), Đặng Tuấn V (03 lần 03 gói), Phạm Văn T (04 lần 04 gói), Vũ Ngọc Đ (02 lần 02 gói), Nguyễn Thái L (04 lần 04 gói), Nguyễn Thành Đ (02 lần 02 gói), Trịnh Vũ Anh K (01 lần 01 gói).

Tại Cơ quan Điều tra, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai các người làm chứng, vật chứng thu giữ và các tài liệu chứng cứ vụ án (các bút lục 28-29; 34-37; 53-66; 67-68).

Về nguồn gốc ma túy bị cáo khai: Mua chất ma túy của Yên Vũ T - cư trú tại xã Phú Trung, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai. Hiện nay T đã bị khởi tố trong vụ án khác, đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đồng Nai.

Về vật chứng vụ án: 01 phong bì màu trắng kí hiệu số 2057/KLGĐ-PC09 đã được niêm phong có dấu tròn đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai, bên trong chứa chất ma túy loại Methamphetamine còn lại sau giám định; 01 điện thoại nhãn hiệu Sam sung j4+, màu xanh đen; 01 cân tiểu ly màu bạc đã chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Phú. Đối với 01 xe mô tô hiệu Yamaha Taurus biển số 54S5-3337, bị cáo sử dụng mua bán ma túy chưa xác minh được nguồn gốc xe, tiếp tục giao Cơ quan điều tra tạm giữ, xác minh, khi có kết quả xử lý sau. Đối với 1.048.000 đồng Công an huyện Tân Phú đã trả lại bị cáo.

Cáo trạng số: 129/CT-VKSTP-ĐN ngày 12/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phú, quyết định truy tố bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Kiêm sat viên trình bày ý kiến luân tôi như sau:

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp các chứng cứ vụ án, chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo, cáo trạng truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

Bị cáo là người nghiện ma túy, biết tác hại của ma túy. Hành vi của bị cáo rất nguy hiểm trong xã hội, cần áp dụng hình phạt tù nghiêm khắc để giáo dục bị cáo.

Tuy nhiên, bị cáo thành khẩn khai báo là tình tiết giảm nhẹ hình phạt. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ: Điểm b khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015; tuyên bố bị cáo phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; xử phạt bị cáo từ 07 năm 06 tháng tù đến 08 năm tù.

Vật chứng vụ án: Căn cứ các Điều 46, Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì giấy kí hiệu số 2057/KLGĐ-PC09 được niêm phong đóng dấu tròn đỏ, bên trong có ma túy loại còn lại sau giám định. Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 điện thoại Samsung J4+, màu xanh đen và 01 cân tiểu ly màu bạc là công cụ phạm tội; bị cáo phải nộp 3.050.000 đồng là tiền thu lợi bất chính để sung quỹ nhà nước.

* Bị cáo trình bày ý kiến: Nội dung bản cáo trạng là đúng sự thật, bị cáo không có ý kiến tranh luận, bị cáo nói lời sau cùng trước khi Hội đồng xét xử nghị án là đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Hoạt động tiến hành tố tụng của Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai và Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai thực hiện theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Đến nay, người tham gia tố tụng trong vụ án không có khiếu nại. Hoạt động tiến hành tố tụng của Công an huyện Tân Phú và Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phú phù hợp pháp luật.

Người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa. Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử vụ án, có thể công bố lời khai để tranh tụng nên không ảnh hưởng hoạt động xét xử. Hội đồng xét xử thống nhất ý kiến đề nghị của Kiểm sát viên, quyết định xét xử vụ án vắng mặt người làm chứng theo Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2]. Về trách nhiệm hình sự:

Tại phiên tòa bị cáo trình bày ý kiến thống nhất với lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra, phù hợp với vật chứng, kết luận giám định là các chứng cứ chứng minh bị cáo đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Vì vậy, Cáo trạng quyết định truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng luật.

* Xét về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo:

Bị cáo là người có đầy đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi để nhận biết hành vi mua bán chất ma túy là vi phạm Bộ luật Hình sự. Bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý của nhà nước về chất ma túy, hành vi của bị cáo gây tác hại lớn đối với sức khỏe con người, làm thiệt hại kinh tế gia đình cũng như trong xã hội và là một trong những nguyên nhân làm phát sinh một số tội phạm. Hành vi của bị cáo rất nguy hiểm trong xã hội, vụ án xảy ra góp phần làm ảnh hưởng xấu đến tình tình an ninh trật tự trong xã hội. Do đó, phải áp dụng hình phạt tù nghiêm minh với tính chất hành vi phạm tội để giáo dục bị cáo về ý thức chấp hành pháp luật, trở thành người công dân tốt.

Xét bị cáo thành khẩn khai báo, chưa có tiền án (tiền sự) là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tòa án mở phiên tòa công khai xét xử vụ án để xử lý hành vi phạm tội của bị cáo và để tuyên truyền, giáo dục ý thức chấp hành pháp luật của công dân, góp phần phục vụ công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm trong xã hội.

Đối với Yên Vũ T có bán ma túy với bị cáo thì Công an đã có quyết định khởi tố vụ án, tạm giam T tại Công an tỉnh Đồng Nai để điều tra xử lý trong vụ án khác là đúng quy định pháp luật nên không xét xử trong cùng vụ án này.

[3] Về vật chứng của vụ án xử lý như sau:

Chất ma túy còn lại sau giám định có khối lượng 0,1632 gam là vật (chất) cấm lưu hành, tàng trữ cần phải tịch thu tiêu huỷ. Đối với 01 điện thoại Samsung, 01 cân tiểu ly là công cụ, phương tiện phạm tội và 3.050.000 đồng là tiền bị cáo thu lợi bất chính cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm a và c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; 1.048.000 đồng tiền của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội, Công an huyện Tân Phú đã quyết định trả lại bị cáo theo điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Bị cáo dùng xe mô tô hiệu Yamaha Taurus, biển số 54S5-3337 mua bán ma túy, xe đang tạm giữ tại Công an huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai: Đến nay, Công an huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai không xác minh được nguồn gốc xe, Hội đồng xét xử không có đủ chứng cứ để xử lý xe này nên phải tách ra để giải quyết bằng một vụ án khác khi có yêu cầu của người có quyền sở hữu tài sản theo quy định tại Điều 30, khoản 4 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[4] Về chi phí tố tụng: Bị cáo là người bị kết án, phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo khoản 2 Điêu 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí Tòa án.

[5] Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo là phù hợp chứng cứ vụ án, quy định của luật. Hội đồng xét xử thống nhất ý kiến đề nghị của Kiểm sát viên.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017):

Căn cứ Điều 30, điểm a khoản 2, điểm a khoản 3, khoản 4 Điều 106, khoản 2 Điêu 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí Tòa án.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Ngọc Đ phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Nguyễn Ngọc Đ 08 (tám) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 27 tháng 8 năm 2020.

- Về vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì giấy kí hiệu số 2057/KLGĐ-PC09 đã được niêm phong đóng dấu tròn đỏ của Công an tỉnh Đồng Nai, bên trong có chất ma túy loại Methamphetamine còn lại sau giám định có khối lượng 0,1632 gam và tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại Samsung J4+, màu xanh đen cùng 01 cân tiểu ly màu bạc (Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai đã nhận các vật chứng này của Công an huyện Tân Phú chuyển đến ngày 16 tháng 11 năm 2020):

Bị cáo phải nộp tiền thu lợi bất chính là 3.050.000đ (ba triệu, không trăm năm mươi nghìn đồng) để sung vào ngân sách nhà nước.

Xe mô tô hiệu Yamaha Taurus, biển số 54S5-3337 mua bán ma túy, xe đang tạm giữ tại Công an huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai: Tách ra để giải quyết trong vụ án khác khi có yêu cầu của người có quyền sở hữu tài sản.

- Bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

- Về trách nhiệm thi hành án dân sự:

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với trường hợp cơ quan thi hành án dân sự chủ động ra quyết định thi hành án) mà bên phải thi hành án không tự nguyện thi hành án thì bên phải thi hành án còn phải chịu tiền lãi suất đối với tài sản còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

Bản án được thi hành theo quy định tại các Điều 2, Điều 6, Điều 7, Điều 9, Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

- Bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

140
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 117/2020/HS-ST ngày 01/12/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:117/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Phú - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;