Bản án 117/2019/HSST ngày 22/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 117/2019/HSST NGÀY 22/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 117/2019/TLST-HS ngày 08 tháng 4 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 117/2019/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phạm Minh T; sinh năm 1985 tại tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Đội C thôn N xã T huyện N tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: tự do; trình độ văn hóa: lớp 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Phạm Mạnh T và bà: Dương Thị S; tiền án: ngày 05-8-2016 Tòa án nhân dân thành phố Nam Định xử phạt 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; tiền sự: không; nhân thân: ngày 18-01-2016 Công an phường Cửa Nam thành phố Nam Định xử phạt cảnh cáo về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”; ngày 27-01-2016 Công an phường Cửa Nam thành phố Nam Định xử phạt cảnh cáo về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” (đã được xóa tiền sự); bị bắt, tạm giữ ngày 22-01-2019, chuyển tạm giam ngày 31-01-2019; có mặt.

Người làm chứng: Ông Phùng Đình N, ông Vũ Đức Đ (không triệu tập tham gia phiên tòa); vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 22-01-2019, tổ công tác Công an phường Bà T thành phố Nam Định kiểm tra hành chính đối với Phạm Minh T đang ngồi trên xe máy biển kiểm soát N tại khu vực cổng chợ R gần đình Nguyễn C, đường Phạm Hồng T, phường Bà T, thành phố N. Quá trình kiểm tra thu giữ trong túi quần bên phải đang mặc của T 01 túi ni lông màu trắng trong suốt, tổ công tác đã thu giữ mở kiểm tra bên trong có chứa bột dạng cục màu trắng, T khai là gói Heroine. Tổ công tác đã tiến hành niêm phong vật chứng, đưa T cùng người làm chứng về trụ sở Công an lập biên bản bắt người phạm tội quả tang theo quy định của pháp luật, tạm giữ của T xe máy biển kiểm soát N.

Bản Kết luận giám định số 124/GĐKTHS ngày 25-01-2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu bột dạng cục màu trắng được niêm phong gửi giám định là ma túy, loại ma túy: Heroine, khối lượng: 0,130 (không phẩy một trăm ba mươi) gam.

Tại cơ quan điều tra, Phạm Minh T khai: Khoảng 07 giờ 30 phút ngày 22-01-2019, T điều khiển xe máy biển kiểm soát N đi từ nhà đến Trung T phòng chống AIDS/HIV trên đường T thành phố N để lấy thuốc ARV, sau khi lấy thuốc xong T gặp và nhờ một nam thanh niên không rõ lai lịch mua hộ 01 gói Heroine với số tiền 190.000 đồng mục đích để sử dụng. Nam thanh niên đồng ý nhận tiền của T và hẹn T đứng chờ ở đó, nam thanh niên đi khoảng 15 phút sau quay lại nói với T đã mua được ma túy và nhờ T chở ra khu vực chợ R gần đình Nguyễn C, đường Phạm Hồng T, phường Bà T, thành phố Nam Định. Đến nơi nam thanh niên xuống xe đưa cho T 01 gói ma túy và đi vào trong chợ R, T cầm gói ma túy cất vào túi quần bên phải đang mặc ngồi trên xe máy thì bị Công an phường Bà T phát hiện, bắt giữ.

Bản Cáo trạng số 119/CT-VKSTPNĐ ngày 08 tháng 4 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định truy tố Phạm Minh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên toà, bị cáo Phạm Minh T khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy mục đích để sử dụng cho bản thân như bản Cáo trạng đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định giữ quyền công tố tại phiên tòa luận tội: Giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo toàn bộ nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm h khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), tuyên bố bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; xử phạt bị cáo từ 27 tháng đến 33 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 để xử lý vật chứng.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Bị cáo nói lời sau cùng: đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Nam Định, Điều tra viên,Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Phạm Minh T không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về trách nhiệm hình sự: Lời khai nhận tội của bị cáo Phạm Minh T phù hợp với lời khai của những người làm chứng và các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 22-01-2019, Phạm Minh T bị Công an phường Bà T thành phố Nam Định bắt quả tang cất giấu trong túi quần bên phải 01 gói có chứa bột dạng cục màu trắng, T khai là gói Heroine để sử dụng cho bản thân. Bản Kết luận giám định số 124/GĐKTHS ngày 25-01-2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu bột dạng cục màu trắng thu giữ của bị cáo là ma túy, loại ma túy: Heroine, khối lượng: 0,130 (không phẩy một trăm ba mươi) gam. Bị cáo có năng lực trách nhiệm hình sự, tàng trữ trái phép chất ma túy mục đích sử dụng cho bản thân, lỗi của bị cáo là lỗi cố ý. Do đó, bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định là có căn cứ.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của nhà nước, gây mất trật tự an toàn xã hội, góp phần làm gia tăng tệ nạn ma túy và tội phạm. Bị cáo có nhân thân xấu, đã bị xử phạt hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo có 01 tiền án chưa được xóa án tích nên phải chịu tình tiết tăng nặng là “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình; do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo.

[4] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Số ma túy sau khi giám định hoàn lại là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên tịch thu, tiêu hủy. Chiếc xe máy biển kiểm soát N tài liệu điều tra chưa đủ căn cứ xác định nên Cơ quan điều tra tách ra tiếp tục điều tra, xử lý sau là đúng quy định của pháp luật

[6] Đối với người đã bán ma túy cho bị cáo, tài liệu điều tra chưa đủ căn cứ xác định nên Cơ quan điều tra tách ra tiếp tục điều tra, xử lý sau là đúng quy định của pháp luật.

[7] Về án phí: Bị cáo Phạm Minh T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm h khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội:

1. Tuyên bố: Bị cáo Phạm Minh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Phạm Minh T 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 22-01-2019.

2. Xử lý vật chứng:  Tịch thu tiêu hủy số ma túy có trong phong bì niêm phong số 124/GĐKTHS (chi tiết vật chứng ghi trong biên bản giao nhận vật chứng ngày 25-3-2019).

3. Án phí: Bị cáo Phạm Minh T phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo Phạm Minh T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

199
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 117/2019/HSST ngày 22/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:117/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;