Bản án 117/2018/HS-ST ngày 26/09/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ M, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 117/2018/HS-ST NGÀY 26/09/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Hôm nay, ngày 26 tháng 9 năm 2018, tại trụ sở, Tòa án nhân dân thành phố M, tỉnh Quảng Ninh m phiên tòa công khai theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 118/2018/HSST-QĐ ngày 12 tháng 9 năm 2018 của Tòa án nhân dân thành ph M để tiến hành xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 114/2018/HSST ngày 04/9/2018, đối với bị cáo:

Họ và tên: Phạm Minh T (không có tên gọi khác)

Sinh ngày: 08 tháng 02 năm 1968 tại Hải Dương ; nơi thường trú : số 3/14 đường P, phường P, thành phố H, tỉnh H; chỗ ở: Khu 4, phường H, thành phố M, tỉnh Quảng Ninh; giới tính: nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 7/10; tên bố: Phạm Minh Đ, sinh năm 1938; tên mẹ: Chu Thị L, sinh năm 1943; tên vợ: Lý Tú H, sinh năm 1971; có 01 con sinh năm 1994;

Tiền án, tiền sự: không;

Nhân thân:

+ Ngày 13/8/1985, Tòa án nhân dân thị xã H (nay là thành phố H), tỉnh H xử phạt 18 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 36 tháng, về tội: “Trộm cắp tài sản của công dân”.

+ Ngày 28/12/2000, Tòa phúc thẩm tại Hà Nội, Tòa án nhân dân tối cao xét xử phúc thẩm xử phạt 06 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Bị cáo bị bắt quả tang ngày 07/6/2018, hiện tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố M, tỉnh Quảng Ninh. Có mặt tại phiên tòa.

Người chứng kiến: Chị Hoàng Thị Tuyết Nh, sinh năm: 1997; Nơi cư trú: Khu Hạ Long, phường N, thành phố M, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Căn cứ bản cáo trạng số 121/CT-VKS-MC ngày 31/8/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố M cùng với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được thể hiện như sau:

Chiều ngày 07/6/2018, Phạm Minh T đi ra khu vực khách sạn Biển Bắc thuộc khu 3, phường Tr, thành phố M, gặp và hỏi mua của đối tượng tên là Hùng (không rõ lai lịch, địa chỉ) 5.000.000đ (năm triệu đồng) tiền ma túy “đá”, Hùng đồng ý và hẹn T khoảng một giờ sau quay lại để giao dịch mua bán. Đến khoảng 18 giờ 30 phút cùng ngày, T quay lại khu vực khách sạn Biển Bắc gặp và đưa cho Hùng 5.000.000 đồng, rồi nhận từ Hùng 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long bên trong đựng 20 túi ma túy “đá”; 03 vỏ túi nilon và 01 tờ tiền mệnh giá 1.000 đồng. Sau khi mua, T mang toàn bộ số ma túy về phòng trọ của T ở khu 4, phường H, thành phố M, cất giấu mục đích để bán kiếm lời.

Đến khoảng 22 giờ cùng ngày, T nhận được điện thoại của một người đàn ông (không rõ lai lịch, địa chỉ) hỏi mua 1.500.000đ (một triệu năm trăm nghìn đồng) tiền ma túy “đá”, T đồng ý bán và hẹn đến khu vực cổng Chợ 4, phường H, để giao dịch mua bán. Sau đó, T mang theo vỏ bao thuốc lá Thăng Long đựng 20 túi ma túy “đá” đến điểm hẹn. Khi T đi đến đầu ngõ 312 đường Trần Quốc Tảng thuộc khu 4, phường H, thì bị Tổ công tác của Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố M phát hiện, bắt quả tang.

Tại biên bản bắt người phạm tội quả tang, thể hiện: Hồi 22 giờ 00 phút ngày 07/6/2018, tổ công tác của Đội CSĐTTP về ma túy - Công an thành phố M trên đường đi làm nhiệm vụ đến khu vực đầu ngõ 312 đường Trần Quốc Tảng, khu 4, phường H, thành phố M phát hiện một người đàn ông đứng tại đó có biểu hiện nghi vấn tội phạm về ma túy nên đã đến yêu cầu kiểm tra. Ngay lúc này, người đàn ông đã thả 01 vỏ bao thuốc lá xuống đất nhưng bị tổ công tác phát hiện, nhặt lên kiểm tra thấy là vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Thăng Long màu vàng, dưới sự chứng kiến của quần chúng nhân dân, phát hiện trong vỏ bao thuốc lá có tổng số 20 túi nilon màu trắng bên trong đều chứa chất tinh thể màu trắng, nghi là ma túy. Ngoài những túi nilon có chứa chất tinh thể màu trắng nêu trên, tổ công tác cồn thu giữ bên trong vỏ bao thuốc lá gồm 03 vỏ túi nilon màu trắng, 01 tờ tiền mệnh giá 1.000đ và thu giữ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đỏ. Người đàn ông khai tên Phạm Minh T có lý lịch nêu trên. T khai chất tinh thể chứa trong các túi nilon nêu trên đều là ma túy đá, mua của một người đàn ông tên Hùng với giá 5.000.000đ, mục đích bán cho người khác kiếm lời.

Ngày 08/6/2018, Cơ quan điều tra tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Phạm Minh T thu giữ: 01 túi nilon màu trắng bên trong chứa chất thảo 3 mộc màu nâu đã xay nhỏ; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu vàng; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu đen; 02 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia; 01 thẻ căn cước công dân, 01 hộ chiếu và 01 sổ thông hành đều mang tên Phạm Minh T; 01 đầu thu camera; 01 máy tính xách tay; số tiền 16.110.000 đồng (tiền Việt Nam) và 1.200 nhân dân tệ (tiền Trung Quốc).

Quá trình điều tra, Phạm Minh T khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên và khai túi nilon bên trong chứa cần sa là do Hùng cho T sau khi bán ma túy cho T vào ngày 07/6/2018, T cất giấu túi cần sa trên để sử dụng cho bản thân.

Tại Bản kết luận giám định số 471/GĐMT ngày 13/6/2018, của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh, kết luận: 20 túi nilon chứa chất tinh thể màu trắng, được kí hiệu từ M1 đến M20 gửi giám định là ma túy; Loại: Methamphetamine; Tổng khối lượng là 4,657 gam (bốn phẩy sáu năm bảy gam); 01 túi nilon chứa thực vật khô, kí hiệu M21 gửi giám định là ma túy; Loại: cần sa; Khối lượng: 0,549 gam (không phẩy năm bốn chín gam).

Người chứng kiến chị Hoàng Thị Tuyết Nhung có nội dung lời khai thể hiện: Khoảng 22 giờ ngày 07/6/2018, khi đi từ nhà bạn về nhà qua đoạn đầu ngõ 312 đường Trần Quốc Tảng, khu 4, phường H, thành phố M thì chị thấy lực lượng công an đang kiểm tra một người đàn ông mà chị không quen biết, sau biết tên là Phạm Minh T. Tại đây chị chứng kiến lực lượng công an phát hiện bắt quả tang hành vi phạm tội của T và thu giữ các vật chứng như trong biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Bản cáo trạng số 121/CT-VKS-MC, ngày 31/8/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố M, tỉnh Quảng Ninh đã truy tố Phạm Minh T về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa: Bị cáo Phạm Minh T nhận tội và khai lại toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung vụ án và quá trình điều tra.

Đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố đã giữ nguyên quyết định truy tố và luận tội đối với bị cáo Phạm Minh T; sau khi phân tích nội dung vụ án, tính nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đã đề nghị với Hội đồng xét xử:

Áp dụng: khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Phạm Minh T từ 36 (ba mươi sáu) đến 42 (bồn mươi hai) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày 07/6/2018.

Về hình phạt bổ sung: không áp dụng hình phạt bổ sung

Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy 3,47 gam Methamphetamine và 0,25 gam cần sa hoàn lại sau giám định; 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng; 03 vỏ túi nilon màu trắng;

- Tịch thu sung ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel và 01 tờ tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam mệnh giá 1.000 đông;

- Trả lại bị cáo T: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu vàng; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu đen; 02 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia; 01 thẻ căn cước công dân, 01 hộ chiếu và 01 sổ thông hành đều mang tên Phạm Minh T; 01 đầu thu camera; 01 máy tính xách tay; số tiền 16.110.000 đồng (tiền Việt Nam) và 1.200 nhân dân tệ (tiền Trung Quốc).

Bị cáo không tranh luận với lời luận tội của Đại diện Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm vấn và tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an thành phố M, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố M, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Nhận định của Hội đồng xét xử về những chứng cứ xác định bị cáo có tội: Đánh giá nội dung Biên bản bắt người phạm tội quả tang, các lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, lời khai của người chứng kiến, trên cơ sở kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh và các tài liệu, chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 22 giờ ngày 07/6/2018, tại khu 4, phường H, thành phố M, tỉnh Quảng Ninh, Phạm Minh T đã có hành vi cất giấu trái phép 4,657 gam Methamphetamine nhằm mục đích bán kiếm lời, thì bị phát hiện bắt quả tang.

Đối với hành vi cất giấu 0,549 gam cần sa để sử dụng của Phạm Minh T, do khối lượng ma túy chưa đến mức để xử lý hình sự về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” nên Công an thành phố M đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với T về hành vi này, nên không xét.

Các chứng cứ buộc tội của Đại diện Viện kiểm sát phù hợp các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi đã thực hiện như nội dung Bản cáo trạng.

Bị cáo có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi do lỗi cố ý, xâm phạm đến chính sách của Nhà nước về quản lý các chất ma túy. Do đó, hành vi nêu trên của bị cáo Phạm Minh T đã cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự. Như vậy, quan điểm truy tố và luận tội của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố M là có căn cứ pháp lý.

Điều 251 Bộ luật Hình sự quy định:

“1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm”.

[3] Xét tính chất và hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự, an ninh xã hội ở địa phương. Đây còn là nguyên nhân gây các loại tội phạm khác, gây dư luận xấu trong quần chúng nhân dân. Mặc dù nhận thức rõ tác hại của ma túy, nhưng vì vụ lợi cá nhân nên bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, vì vậy cần xử lý nghiêm, mới có tác dụng giáo dục bị cáo và phục vụ công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, phòng ngừa chung.

[4] Về áp dụng tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, hình phạt bổ sung:

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tiền án, tiền sự, tại cơ quan điều tra bị cáo khai báo thành khẩn và tại phiên tòa bị cáo tiếp tục thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Tuy nhiên, nhân thân bị cáo thể hiện: Phạm Minh T đã bị xử phạt 06 năm tù cũng về về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” nên Hội đồng xét xử cần cân nhắc khi áp dụng mức hình phạt.

- Về hình phạt bổ sung, theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự, người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo là lao động tự do có thu nhập không ổn định. Vì vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng và xử lý vật chứng: Cơ quan công an thu giữ của bị cáo 4,657 gam ma túy, loại Methamphetamine và 01 túi nilon chứa thực vật khô, là ma túy; Loại: cần sa; Khối lượng: 0,549 gam, số ma túy hoàn lại sau giám định là 3,47 gam Methamphetamine và 0,25 gam cần sa kèm theo kết luận giám định số 471/GĐMT ngày 13/6/2018 đều chứa trong 01 phong bì số 471/GĐMT được niêm phong theo đúng quy định. Ma túy là vật nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành cần tịch thu, tiêu hủy.

- 03 vỏ túi nilon màu trắng; 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Thăng Long, màu vàng. Đây là vật chứng không có giá trị cần tịch thu, tiêu hủy.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đỏ, gắn 02 sim bên trong, qua sử dụng và tờ tiền 1.000 Việt Nam đồng là vật chứng liên quan đến việc phạm tội, do đó cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

- 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu vàng; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu đen; 02 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia; 01 thẻ căn cước công dân, 01 hộ chiếu và 01 sổ thông hành đều mang tên Phạm Minh T; 01 đầu thu camera; 01 máy tính xách tay; số tiền 16.110.000 đồng và 1.200 nhân dân tệ (tiền Trung Quốc) thu giữ của Phạm Minh T không liên quan đến việc phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo. Đối với so tiền 16.110.000 đồng cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[6] Về nghĩa vụ chịu án phí hình sự sơ thẩm: Cần buộc bị cáo phải chịu 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

[7] Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật

[8] Liên quan trong vụ án còn có đối tượng tên Hùng đã bán trái phép chất ma túy cho T và người đàn ông đã gọi điện cho T hỏi mua ma túy, nhưng quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ nên không có căn cứ để xử lý.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

I. Tuyên bố: Bị cáo Phạm Minh T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Phạm Minh T 36 (ba mươi sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 07/6/2018.

II. Về xử lý vật chứng:

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, khoản 1, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

1. Tịch thu tiêu hủy: 3,47 gam Methamphetamine và 0,25 gam cần sa được chứa trong 01 (một) phong bì số 471/GĐMT của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Quảng Ninh được niêm phong theo đúng quy định của pháp luật, còn nguyên vẹn; 03 vỏ túi nilon màu trắng; 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Thăng Long, màu vàng.

2. Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đỏ, gắn 02 sim bên trong, qua sử dụng và tờ tiền 1.000 Việt Nam đồng.

3. Trả lại cho bị cáo: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu vàng; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu đen; 02 (hai) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia; 01 (một) thẻ căn cước công dân, 01 (một) hộ chiếu và 01 (một) sổ thông hành đều mang tên Phạm Minh T; 01 (một) đầu thu camera; 01 (môt) máy tính xách tay; 1.200 nhân dân tệ (một nghìn hai trăm nhân dân tệ, tiền Trung Quốc).

4. Trả lại cho bị cáo số tiền 16.110.000đ (mười sáu triệu một trăm mười nghìn đồng, tiền Việt Nam) nhưng tạm giữ số tiền để đảm bảo thi hành án.

Các vật chứng nên trên hiện do Chi cục thi hành án dân sự thành phố M quản lý theo Biên bản giao nhận vật chứng số 133/2018/THA, ngày 06/9/2018.

III. Về án phí:

Căn cứ vào khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Phạm Minh T phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

IV. Về quyền kháng cáo:

Căn cứ vào khoản 1 Điều 331 và khoản 1 Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

246
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 117/2018/HS-ST ngày 26/09/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:117/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Móng Cái - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;