Bản án 116/2020/HS-ST ngày 18/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN T X, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 116/2020/HS-ST NGÀY 18/06/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18/6/2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận TX, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số:125/2020/HSST ngày 04/6/2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 153/2020/QĐXXST-HS ngày 5/6/2020 đối với bị cáo có lý lịch như sau:

Họ và tên:ĐGN, sinh năm 1976tại Hà Nội; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 175 NL, quận LB, thành phố Hà Nội; Chỗở hiện nay: 51/481/1 NL, quận LB, thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: N; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt N; Con ông:ĐMS (Sinh năm 1944); Con bà:NTT (Sinh năm 1948).

* Tiền án, tiền sự: 01 tiền án: Ngày 26/9/2016, Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội xử phạt 30 tháng tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Ra trại ngày 28/7/2018 (chưa xóa án).

xóa.

* Về nhân thân: 02 tiền sự đã hết thời hiệu và 05lần bị kết án đã được 1. Ngày 02/12/1994, Tòa án nhân dân huyện GL, Hà Nội xử phạt 36 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời hạn thử thách 60 tháng về tội Cướp tài sản của công dân (đã xóa án).

2. Ngày 21/2/1998, Tòa án nhân dân huyện GL, Hà Nội xử phạt 12 tháng tù về tội trộm cắp tài sản của công dân, 12 tháng tù về tội Cưỡng đoạt tài sản của công dân. Tổng hợp hình phạt với bản án ngày 02/12/1994 của Tòa án nhân dân huyện GL, buộc phải chấp hành hình phạt chung là 60 tháng tù (đã xóa án) 3. Ngày 14/01/2002, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử phạt 42 tháng tù về tội Cướp giật tài sản (đã xóa án).

4. Ngày 13/7/2010, Tòa án nhân dân quận HK, thành phố Hà Nội xử phạt 40 tháng tù về tội Cướp giật tài sản (đã xóa án).

5. Ngày 18/12/2015, Hội đồng xét xử phúc thẩm – Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử miễn trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ trái phép chất ma túy (đã xóa án).

Bị cáo bị bắt phạm tội quả tang ngày 10.02.2020; tạm giữ ngày:

11/02/2020; tạm giam ngày: 19/02/2020. Bị cáo bị tạm giam tại Trại tạm giam số 2 Công an thành phố Hà Nội.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ 00 phút ngày 10/02/2020, tổ công tác Công an phường KM, quận TX, Hà Nội làm nhiệm vụ tuần tra phát hiện ĐGN vừa bước xuống từ xe ô tô biển kiểm soát: 30G-167.35 và đang đi bộ tại khu vực trước số 292 phố Thượng Đình, phường Hạ Đình, quận TX, thành phố Hà Nội có biểu hiện nghi vấn phạm tội về ma túy nên đã yêu cầu kiểm tra hành chính. Quá trình kiểm tra, N tự giác lấy từ trong túi áo khoác bên phải đang mặc 01 túi nilong kích thước khoảng 6x10cm, bên trong có 02 túi nilong bao gồm: 01 túi nilong kích thước khoảng 4x6cm, bên trong có chứa các tinh thể màu trắng và 01 túi nilong kích thước khoảng 5x8cm, bên trong có chứa 15 viên nén hình tròn màu đỏ đồng thời khai nhận đó là ma túy. Tổ công tác đã T hành thu giữ, niêm phong toàn bộ tang vật và đưa N về trụ sở Công an phường Hạ Đình để giải quyết.

Cơ quan công an đã thu giữ của ĐGN:

- 01 túi nilong kích thước khoảng 6x10cm, bên trong có chưa 02 túi nilong gồm: 01 túi nilong kích thước khoảng 4x6cm, bên trong có chứa tinh thể màu trắng và 01 túi nilong kích thước khoảng 5x8cm, bên trong có chứa 15 viên nén hình tròn màu đỏ.

- 01 điện thoại di động Samsung Galaxy S8 màu đen, bên ngoài bọc ốp trong suốt có viền màu vàng, lắp sim số 0986656682 và 0334403089, IMEI1:

358059080067188, IMEI2: 358060080067186 và 01 điện thoại di động iphone 6s plus màu đen, có ốp bọc màu đen, lắp sim số 0985066639, IMEI: 353293071455582.

Tại bản án kết luận giám định số 1183/KLGĐ – PC09 ngày 28/02/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hà Nội đã kết luận (BL97):

- Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilong là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng: 4,837 gam.

- 15 viên nén hình tròn màu đỏ bên trong 01 túi nilong đều là ma túy loại Methamphetamine, tổng khối lượng: 1,495 gam.

Tại cơ quan điều tra, ĐGN khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như sau: Khoảng 20 giờ 00 phút ngày 10/02/2020, N đi bộ ra khu vực vườn hoa NL, LB, Hà Nội gặp và mua của một phụ nữ không quen biết 02 túi ma túy gồm: 01 túi nilong kích thước khoảng 4x6cm, bên trong chứa ma túy dạng tinh thể với giá 2.000.000 đồng và 01 túi nilong kích thước khoảng 5x8cm bên trong chứa 15 viên nén hình tròn màu đỏ là ma túy hồng phiến với giá 750.000 đồng. Sau đó, N cất số ma túy trên vào túi áo khoác bên phải đang mặc rồi bắt xe taxi biển kiểm soát: 30G-167.35 qua ứng dụng Be do anh KXD điều khiển đi đến số 122 phố Khương Đình để hẹn một người bạn xã hội tên T cùng sử dụng ma túy. Khi N vừa xuống xe taxi và chưa gặp T thì bị cơ quan công an kiểm tra, phát hiện bắt giữ cùng toàn bộ tang vật.

Đối với đối tượng bán ma túy cho ĐGN và đối tượng T, do N khai không biết rõ tên tuổi, địa chỉ cụ thể. Do vậy, Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra làm rõ.

Đối với anh KXD, quá trình điều tra xác định không liên quan đến hành vi phạm tội của ĐGN. Do vậy, Cơ quan điều tra không đề cập xử lý.

Đối với chiếc điện thoại di động Samsung Galaxy S8 màu đen, bên ngoài bọc ốp trong suốt có viền màu vàng và chiếc điện thoại di động iPhone 6s plus màu đen, quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp của ĐGN, không sử dụng vào mục đích phạm tội.

Tại bản cáo trạng số 119/CT-VKSTX ngày 03/06/2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận TX đã truy tố bị cáo ĐGNvề tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm gkhoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.

*Tại phiên tòa hôm nay Bị cáo ĐGN đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã truy tố.Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là trái pháp luật và ăn năn hối cải. Hiện nay hoàn cảnh gia đình bị cáo éo le, mẹ ốm nặng đang điều trị tại cơ sở y tế, bản thân bị cáo đang điều trị HIV/AIDS bằng thuốc kháng vi rút ARV tại Trung tâm y tế quận Tây Hồ. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất.

Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố như cáo trạng đã nêu, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo,các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ tách nhiệm hình sự: ĐGN có 01 tiền án chưa xóa nên bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự 2015; quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình; do vậy đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo ĐGN từ 6 năm đến 6 năm 6 tháng tù về tội “tàng trữ trái phép chất ma túy”; Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự: Tịch thu tiêu hủy6,332 gam Methamphetamine; Hoàn trả bị cáo 01 điện thoại di động Samsung Galaxy S8 màu đen, bên ngoài bọc ốp trong suốt có viền màu vàng, lắp sim số 0986656682 và 0334403089, IMEI1: 358059080067188, IMEI2: 358060080067186 và 01 điện thoại di động iphone 6s plus màu đen, có ốp bọc màu đen, lắp sim số 0985066639, IMEI: 353293071455582.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng.

Các hành vi, quyết định của Điều tra viên, Cơ quan điều tra Công an quận TX, Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân quận TX trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo nhận tội, không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan T hành tố tụng, người T hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan T hành tố tụng, người T hành tố tụng đã thực hiện đều phù hợp quy định của pháp luật.

[2] Về tội danh và điều luật áp dụng, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đường lối xử lý:

Tại phiên tòa bị cáo công nhận nội dung bản cáo trạng đã nêu là đúng. Qua xét hỏi và tranh luận bị cáo khai nhận hành vi phạm tội hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai người làm chứng, phù hợp với tang vật, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 21 giờ ngày 10/02/2020bị cáo ĐGN có hành vi tàng trữ 6,332gam ma túy loại Methamphetaminetại trước khu vựcsố 292 phố Thượng Đình, phường Hạ Đình, TX, Hà Nộivới mục đích sử dụng cho bản thân thì bị Cơ quan Công an phát hiện bắt giữ.

Hành vi của bị cáo ĐGN đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm gkhoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Viện kiểm sát nhân dân quận TX truy tố bị cáo để xét xử theo tội danh “tàng trữ trái phép chất ma túy” là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Tình tiết tăng nặng: Bị cáo có một tiền án do chưa được xóa án tích đối với bản án ngày 26.9.2016 của Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội, lần phạm tội này là tái phạm. Do đó, bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, vi phạm chính sách quản lý độc quyền của nhà nước về chất ma túy, xâm phạm đến trật tự, an toàn xã hội, được quy định trong Bộ luật hình sự là hành vi phạm tội. Bản thân bị cáo là người trưởng thành, nhận thức rõ tác hại nhiều mặt của ma túy đến sức khỏe và đời sống của con người, bị cáo nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Hội đồng xét xử thấy cần phải áp dụng một mức hình phạt nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng cải tạo, giáo dục đối với bị cáo và đảm bảo phòng ngừa chung cho xã hội.

Tuy nhiên khi lượng hình hội đồng xét xử có xem xét đến các tình tiết như tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nên áp dụng điểm s khoản 1Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[3]Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có việc làm và thu nhập ổn định nên miễn áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về xử lý vật chứng và các vấn đề khác:

Tang vật của vụ án gồm: 6,332 gam Methamphetamine; 01 điện thoại di đông Samsung Galaxy S8 màu đen, bên ngoài bọc ốp trong suốt có viền màu vàng, lắp sim số 0986656682 và 0334403089, IMEI1: 358059080067188, IMEI2: 358060080067186 và 01 điện thoại di động iphone 6s plus màu đen, có ốp bọc màu đen, lắp sim số 0985066639, IMEI: 353293071455582.

Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy số ma túy thu giữ của bị cáo; hoàn trả bị cáo điện thoại di động do không liên quan đến hành vi phạm tội.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1/ Tuyên bố: Bị cáo ĐGN phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2/ Áp dụng điểm gkhoản 2 Điều 249;điểm s khoản 1 Điều 51;điểm h khoản 1 Điều 52Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáoĐGN 6 (sáu) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt phạm tội quả tang 10.02.2020.

3/ Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy: 6,332 gam Methamphetamine;

Hoàn trả bị cáo ĐGN 01 điện thoại di đông Samsung Galaxy S8 màu đen, bên ngoài bọc ốp trong suốt có viền màu vàng, lắp sim số 0986656682 và 0334403089, IMEI1: 358059080067188, IMEI2: 358060080067186 và 01 điện thoại di động iphone 6s plus màu đen, có ốp bọc màu đen, lắp sim số 0985066639, IMEI: 353293071455582.

Hiện các vật chứng đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận TX, thành phố Hà Nội theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 11.6.2020.

4/ Án phí và quyền kháng cáo: Áp dụng: Điều 136, Điều 331, Điều 333, Điều 336, Điều 337 của Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015.

- Điều 21, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, danh mục án phí kèm theo.

Bị cáoĐGNphải nộp 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

175
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 116/2020/HS-ST ngày 18/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:116/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thanh Xuân - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;