Bản án 116/2020/HS-ST ngày 14/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SƠN LA, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 116/2020/HS-ST NGÀY 14/08/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 117/2020/TLST- HS ngày 04/8/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 117/2020/QĐXXST- HS ngày 04/8/2020 đối với bị cáo:

Lù Văn V, sinh ngày 07 tháng 02 năm 1972 tại huyện M, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Bản Đ, xã C, huyện M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 6/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lù Đức S và bà Lò Thị P; bị cáo có vợ là Hoàng Thị X và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 31/8/2005, Tòa án nhân dân thị xã (nay là thành phố) Sơn La xử phạt 09 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 tháng về tội trộm cắp tài sản; ngày 16/5/2007, Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Sơn La xử phạt 12 tháng tù về tội trộm cắp tài sản và buộc chấp hành hình phạt 09 tháng tù tại bản án ngày 31/8/2005, tổng hợp hình phạt chung là 21 tháng tù (đều đã xóa án tích); bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/4/2020 đến nay. Có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Hoàng Thị X, sinh năm 1972; nơi cư trú: Bản Đ, xã C, huyện M, tỉnh Sơn La. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 14 giờ 30 phút ngày 27/4/2020, tổ công tác Công an phường S, thành phố Sơn La làm nhiệm vụ tại khu vực tổ 1, phường S, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La bắt quả tang Lù Văn V có hành vi cất giữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ gồm: 01 gói giấy bạc bên trong có chứa cục bột màu trắng (V lấy trong túi áo đang mặc ra giao nộp và khai nhận là Heroine cất giữ để sử dụng). Ngoài ra, còn tạm giữ 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu sơn đỏ đen biển kiểm soát 26B1-xxx đã qua sử dụng.

Ngày 27/4/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Sơn La đã thành lập Hội đồng bóc mở niêm phong, cân tịnh và lấy mẫu giám định vật chứng. Kết quả cân tịnh số cục bột màu trắng thu giữ của Lù Văn V có khối lượng 0,60 gam. Lấy 0,25 gam làm mẫu giám định gửi giám định, ký hiệu V1. Còn lại 0,35 gam làm mẫu lưu kho, ký hiệu V2.

Tại Kết luận giám định số 669 ngày 28/4/2020, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: Mẫu gửi giám định ký hiệu V1 là ma túy; loại Heroine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,25 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,60 gam; loại Heroine.

Quá trình điều tra, Lù Văn V khai nhận: Khoảng 13 giờ 15 phút ngày 27/4/2020, Lù Văn V điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 26B1-xxx từ nhà ở bản Đ, xã C, huyện M, tỉnh Sơn La đến khu vực tổ 1, phường S, thành phố Sơn La mua ma túy về sử dụng. Tại đây, V gặp, hỏi mua được của một người nam giới không biết họ tên, địa chỉ 01 gói Heroine với số tiền 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng). V cất ma túy vào túi áo đang mặc, điều khiển xe đi tìm nơi sử dụng ma túy thì bắt quả tang.

Đối với người bán ma túy cho Lù Văn V: Do V không biết họ tên, địa chỉ, ngoài lời khai của V không có tài liệu, chứng cứ nào khác để điều tra, xử lý.

Bản cáo trạng số 131/CT-VKSTP ngày 03/8/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La truy tố Lù Văn V về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La giữ nguyên cáo trạng truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

1. Tuyên bố: Lù Văn V phạm tội tàng trữ trái phép chất ma tuý. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Xử phạt Lù Văn V từ 20 tháng đến 26 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

2. Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì công văn của Công an thành phố Sơn La đã niêm phong. Mặt trước phong bì ghi: “Vật chứng lưu kho vụ Lù Văn V, sinh năm 1972 - Tàng trữ trái phép chất ma túy. Bắt ngày 27/4/2020. Gồm: 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở; 01 mảnh giấy bạc; mẫu lưu có khối lượng 0,35 gam ký hiệu V2”.

Trả cho bà Hoàng Thị X: 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu sơn đỏ đen, biển kiểm soát 26B1-xxx đã qua sử dụng.

3. Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Tại phiên tòa, bị cáo giữ nguyên lời khai tại Cơ quan điều tra, nhất trí với cáo trạng truy tố và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, bị cáo đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Hoàng Thị X đề nghị được trả lại chiếc xe máy.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về quá trình tiến hành tố tụng: Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi và trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Xét lời khai nhận của bị cáo hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, sơ đồ vị trí bắt giữ; vật chứng đã thu giữ; biên bản bóc mở niêm phong, cân tịnh vật chứng, lấy mẫu gửi giám định và niêm phong lại; kết luận giám định; lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, lời khai của người chứng kiến. Có đủ căn cứ khẳng định: Ngày 27/4/2020, Lù Văn V đã thực hiện hành vi cất giữ trái phép 0,60 gam Heroine để sử dụng. Hành vi của bị cáo phạm tội tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La truy tố bị cáo về tội danh, điều khoản như trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo xâm phạm chế độ quản lý chất ma tuý của Nhà nước, thuộc loại tội phạm nghiêm trọng. Bị cáo là đối tượng sử dụng ma túy, năm 2005 và 2007 đã bị kết án về tội trộm cắp tài sản, đều đã được xóa án tích, nhận thức rõ hành vi vi phạm của mình nhưng vẫn thực hiện. Cần xử phạt nghiêm khắc nhằm trừng trị, giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo có bà ngoại, bố đẻ và anh trai được tặng thưởng Huân chương hạng nhất, hạng nhì; được xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[3] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): Bị cáo có tài sản chung với bà Hoàng Thị X 01 nhà xây cấp bốn, diện tích đất 40m2, thu nhập lao động tự do không ổn định. Xét điều kiện tài sản, thu nhập của bị cáo thấy cần áp dụng khoản 3 Điều 35 Bộ luật Hình sự, quyết định mức phạt tiền phù hợp.

[4] Về vật chứng của vụ án, căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Đối với 01 phong bì niêm phong trong có 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở, 01 mảnh giấy bạc, mẫu lưu có khối lượng 0,35 gam ký hiệu V2, xét là chất ma túy và đồ vật liên quan, vật không có giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu huỷ.

Đối với một xe mô tô biển kiểm soát 26B1-xxx, bị cáo đã sử dụng xe đi mua ma túy. Cơ quan điều tra xác định là tài sản riêng, phương tiện sinh sống của bà Hoàng Thị X, do điều kiện sức khỏe, bà X không tự điều khiển được xe nên đăng ký sở hữu xe mang tên Lù Văn V. Tại phiên tòa, bị cáo và bà Hoàng Thị X đều xác định chiếc xe là tài sản chung của vợ chồng, bà X không biết bị cáo sử dụng xe đi mua ma túy. Do vậy, cần trả lại chiếc xe cho bị cáo và bà Hoàng Thị X.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 35 Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố: Bị cáo Lù Văn V phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

Xử phạt Lù Văn V 22 (Hai mươi hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (ngày 27/4/2020).

Phạt bổ sung đối với Lù Văn V số tiền: 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng).

2. Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì công văn của Công an thành phố Sơn La đã niêm phong. Mặt trước phong bì ghi: “Vật chứng lưu kho vụ Lù Văn V, sinh năm 1972 - Tàng trữ trái phép chất ma túy. Bắt ngày 27/4/2020. Gồm: 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở; 01 mảnh giấy bạc; mẫu lưu có khối lượng 0,35 gam ký hiệu V2”. Mặt sau phong bì được dán giấy niêm phong số 003751 có ghi “Cơ quan CSĐT-Công an thành phố Sơn La niêm phong vật chứng hồi 19 giờ 05 phút ngày 27/4/2020 tại Công an thành phố Sơn La” và 01 hình dấu tròn đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Sơn La; tại phần giáp lai giấy dán niêm phong và phong bì có chữ ký, họ tên của thành phần tham gia niêm phong, đối tượng bị bắt, kiểm tra niêm phong còn nguyên vẹn.

Trả cho Lù Văn V và bà Hoàng Thị X: 01 xe máy nhãn hiệu Yamaha Sirius sơn màu đỏ đen, biển kiểm soát 26B1-xxx, số máy 5C64669803, số khung RLCS5C640, BY669800, gương phải bị gẫy rời, qua sử dụng.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 10/8/2020 giữa Công an thành phố Sơn La và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Sơn La).

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Bị cáo Lù Văn V phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

162
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 116/2020/HS-ST ngày 14/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:116/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sơn La - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;