Bản án 116/2020/HS-ST ngày 06/08/2020 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ N B - TỈNH N B

BẢN ÁN 116/2020/HS-ST NGÀY 06/08/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 06 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố N B, tỉnh N B, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 100/2020/TLST-HS ngày 17 tháng 6 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 110/2020/QĐXXST- HS ngày 23 tháng 7 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Đỗ Thị L (tên gọi khác: không) - sinh năm 1972 Nơi ở và nơi ĐKHKTT: phố Bạch Đằng, phường N Th, thành phố N B, tỉnh N B.

Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Văn hóa: 4/12 ; Nghề nghiệp: lao động tự do Con ông: Đỗ Văn L (đã mất) ; Con bà: Nguyễn Thị Ng (đã mất) Gia đình có 5 chị em, bị cáo là con thứ nhất. Chồng : Vũ Hữu H - sinh năm 1971 Bị cáo có hai con: lớn sinh năm 1991, con nhỏ sinh năm 2008.

Nhân thân: Bản án số 33/2020/HS-ST ngày 13/3/2020 Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình, tỉnh N B xử phạt 22.000.000 đồng về tội Đánh bạc.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 06/3/2020 hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh N B đến nay ( có mặt tại phiên tòa).

2. Họ và tên: Nguyễn Thị Ch (tên gọi khác: không) - sinh năm 1972 Nơi ở và nơi ĐKHKTT: thôn Văn Lâm, xã N H, huyện H L, tỉnh N B. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không;

Văn hóa: 7/10 ; Nghề nghiệp: lao động tự do Con ông: Nguyễn Văn Th (đã mất); Con bà: Chu Thị T (đã mất) Gia đình có 5 chị em, bị cáo là con thứ ba. Chồng: Vũ Công T - sinh năm 1972 (đã ly hôn) Bị cáo có hai con, con lớn sinh năm 1991, con nhỏ sinh năm 1997.

Tiền án: Bản án số 129/2018 ngày 15/11/2018 Tòa án nhân dân thành phố N B xử phạt 09 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 tháng.

Tiền sự: không Nhân thân: ngày 22/01/2014 Công an phường Phúc Thành, thành phố N B xử phạt 1.500.000 đồng về hành vi Đánh bạc.

Ngày 12/7/2018 Công an thành phố N B xử phạt 1.500.000 đồng về hành vi Đánh bạc.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 27/02/2020 hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình đến nay ( có mặt tại phiên tòa).

3. Họ và tên: Đinh Thị T (tên gọi khác: không) - sinh năm 1963 Nơi ở và nơi ĐKHKTT: số nhà 177, đường Nguyễn Văn Cừ, phố Vạn Xuân 2, phường Th B, thành phố N B, tỉnh N B.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không Văn hóa : 7/10 ; Nghề nghiệp: lao động tự do Con ông : Đinh Quốc H (đã mất); Con bà: Chu Thị Y (đã mất) Gia đình có 08 anh em, bị cáo là con thứ tám.

Chồng, con: không có Bị cáo hiện đang chung sống như vợ chồng với ông Nguyễn Nam H sinh năm 1958 trú tại phố Vạn Xuân 2, phường Th B, thành phố N B, tỉnh N B.

Nhân thân: Bản án số 59 ngày 21/8/1998 Tòa án nhân dân tỉnh N B xử phạt 12 năm tù về tội “Chứa mại dâm”.

- Bản án số 11/2017/HSST ngày 07/3/2017 Tòa án nhân dân thành phố N B xử phạt 06 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc”.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 23/02/2020 đến nay ( có mặt tại phiên tòa).

Người làm chứng:

- chị Nguyễn Thị V, sinh năm 1974.

- anh Vũ Hữu H, sinh năm 1971.

- ông Nguyễn Nam H, sinh năm 1958.

( Những người làm chứng vắng mặt không có lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đỗ Thị L, Đinh Thị T, Nguyễn Thị Ch là bạn bè quen biết với nhau và đều là những người nhận ghi số lô, số đề. Khi L muốn đánh bạc bằng hình thức “chơi lô, đề” với T thì L nhắn tin qua điện thoại chuyển các “số lô, số đề” cho Tâm. Nếu T đồng ý nhận “số lô, số đề” do L chuyển thì T nhắn tin lại để xác nhận với L. Đồng thời L và Ch thỏa thuận với nhau khi nào có nhu cầu đánh bạc thì hai người sẽ sử dụng điện thoại di động chuyển các số lô, số đề cho nhau, sau đó sẽ thanh toán tiền chênh lệch với nhau. Hành vi đánh bạc bằng hình thức “chơi lô, đề” được thua bằng tiền của Đỗ Thị L, Đinh Thị T, Nguyễn Thị Ch dựa vào kết quả sổ xố kiến thiết miền Bắc mở thưởng hàng ngày và được thống nhất cách chơi như sau:

+ Đối với “số đề” 02 số người chơi chọn mua một hoặc nhiều cặp số bất kỳ từ cặp số 00 đến cặp số 99 ghi trong bảng đề. Giá trị mỗi cặp số mua bao nhiêu là tùy người chơi. Việc đối chiếu kết quả được các đối tượng thỏa thuận thống nhất: Lấy hai số cuối của giải đặc biệt của xổ số kiến thiết miền Bắc mở thưởng trong ngày để đối chiếu; nếu cặp số của người chơi trùng với hai số cuối của giải đặc biệt xổ số kiến thiết miền Bắc thì người chơi“trúng đề”. Trong trường hợp này, người nhận số đề sẽ trả cho người chơi với số tiền trúng thưởng có giá trị gấp tám mươi lần số tiền người chơi đã bỏ ra mua các cặp số đề. Ngược lại, nếu người chơi không“trúng đề” thì người nhận số đề được hưởng toàn bộ số tiền người chơi đã bỏ ra mua các cặp “số đề”.

+ Đối với “số lô” Hà Nội thì người chơi chọn mua một hoặc nhiều cặp số bất kỳ từ 00 đến 99, mỗi điểm lô Hà Nội người chơi phải bỏ ra 22.000 đồng. Việc đối chiếu thanh toán được các đối tượng thỏa thuận thống nhất là: Lấy hai số cuối của các giải trong 27 giải xổ số kiến thiết miền Bắc mở thưởng trong ngày để đối chiếu; nếu cặp số của người chơi trùng khớp với hai số cuối của một hoặc các giải thưởng trong 27 giải xổ số kiến thiết miền Bắc hôm đó thì người chơi “trúng lô”. Cứ 22.000 đồng người chơi “số lô Hà Nội” bỏ tiền ra mua một cặp số được tính với nhau là 01 điểm, nếu trùng khớp với một giải thì người nhận số lô phải trả cho người chơi số tiền 80.000 đồng/01 điểm. Ngược lại, nếu người chơi không “trúng lô” thì người nhận số lô sẽ được hưởng toàn bộ số tiền người chơi đã bỏ ra mua các cặp “số lô”.

Từ “nguyên tắc, hình thức” chơi “Số lô, số đề” như trên, trong ngày 21/12/2019 Đỗ Thị L, Đinh Thị T và Nguyễn Thị Ch có hành vi đánh bạc dưới hình thức mua bán các số lô, số đề với nhau, cụ thể như sau:

Trong khoảng thời gian từ 16 giờ 15 phút đến 18 giờ 02 phút ngày 21/12/2019 Đỗ Thị L sử dụng điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J7 Prime lắp sim số 0917.355.399 gửi 04 tin nhắn đến số điện thoại 0855.815.262 của Đinh Thị T để mua 29 số lô với số điểm là 955 điểm, thành tiền là 21.010.000 đồng (955 điểm x 22.000 đồng/01 điểm) và mua 40 số đề với số tiền 600.000 đồng. Tổng số tiền L mua các số lô, số đề của T là 21.610.000 đồng. Sau khi nhận được tin nhắn, Tâm đã nhắn tin xác nhận với nội dung “ok1, ok2, ok4”. Đối chiếu với kết quả xổ số kiến thiết miền Bắc mở thường ngày 21/12/2019 thì L trúng các số lô 03 (160 điểm), 96 (10 điểm), 90 (10 điểm) với số tiền trúng thưởng là 14.400.000 đồng (180 điểm x 80.000 đồng/01 điểm). Như vậy tổng số tiền T và L sử dụng vào việc đánh bạc là 36.010.000 đồng.

Trong khoảng thời gian từ 17 giờ 54 phút đến 18 giờ 08 phút ngày 21/12/2019 Nguyễn Thị Ch sử dụng điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1280 lắp sim số 0911.562.043 gửi 03 tin nhắn đến số điện thoại 0917.355.399 của L để mua 14 số lô với số điểm là 152 điểm, thành tiền là 3.344.000 đồng (152 điểm x 22.000 đồng/01 điểm) và 44 số đề với số tiền 880.000 đồng. Tổng số tiền Ch mua số lô, số đề của Liên là 4.224.000 đồng. Đối chiếu với kết quả xổ số kiến thiết miền Bắc mở thường ngày 21/12/2019 thì Ch trúng các số lô 12 (13 điểm), 60 (10 điểm), 06 (10 điểm) với số tiền trúng thưởng là 2.640.000 đồng (33 điểm x 80.000 đồng/01 điểm). Đồng thời trong khoảng thời gian nói trên Đỗ Thị L cũng gửi cho Ch 02 tin nhắn để mua 14 số lô với số điểm là 160 điểm, thành tiền là 3.520.000 đồng (160 điểm x 22.000 đồng/01 điểm) và mua 46 số đề với số tiền là 690.000 đồng. Tổng số tiền L mua các số lô, số đề của Ch là 4.210.000 đồng. Đối chiếu với kết quả xổ số kiến thiết miền Bắc mở thường ngày 21/12/2019 thì L trúng các số lô 48, 84, 59, 90 (mỗi số 10 điểm) với số tiền trúng thưởng là 3.200.000 đồng (40 điểm x 80.000 đồng/01 điểm). Như vậy tổng số tiền Đỗ Thị L và Nguyễn Thị Ch sử dụng vào việc đánh bạc là 14.274.000 đồng.

Sau khi nhận các số lô, số đề thì T, L, Ch không chuyển các số lô, số đề này cho ai nữa mà giữ lại so sánh với kết quả xổ số kiến thiết Miền Bắc và trực tiếp thanh toán số tiền thắng, thua với nhau. Toàn bộ số tiền đánh bạc các bị can chưa thanh toán với nhau.

Như vậy tổng số tiền Đỗ Thị L sử dụng vào việc đánh bạc trong ngày 21/12/2019 với Đinh Thị T và Nguyễn Thị Ch là 50.284.000 đồng. Số tiền Đinh Thị T sử dụng đánh bạc với Đỗ Thị L là 36.010.000 đồng. Số tiền Nguyễn Thị Ch sử dụng đánh bạc với Đỗ Thị L là 14.274.000 đồng.

Khong 15 giờ ngày 22/12/2019 tổ công tác đội cảnh sát hình sự Công an thành phố N B phối hợp với Công an phường Th B làm nhiệm vụ phát hiện bắt quả tang tại nhà Mai Xuân S sinh năm 1970 ở phố Vạn Xuân 1, phường Th B, thành phố N B, Mai Xuân S cùng với Nguyễn Nam H sinh năm 1958 trú tại phường Thanh Bình, thành phố N B; Nguyễn Thị H sinh năm 1974 trú tại phường Phúc Thành, thành phố N B và Đỗ Thị L đang đánh bạc được thua bằng tiền dưới hình thức đánh Phỏm với tổng số tiền sử dụng vào việc đánh bạc là 20.025.000. Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và đưa các đối tượng cùng tang vật về trụ sở Công an thành phố N B làm việc. Quá trình bắt giữ đã thu giữ của Đỗ Thị L 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J7 Prime lắp sim số 0917.355.399. Quá trình làm việc và kiểm tra điện thoại thu giữ của L, Cơ quan điều tra phát hiện trong máy điện thoại có tin nhắn mua bán số lô, đề với các số điện thoại 0855.815.262 và 0911.562.043. Đỗ Thị L đã khai nhận hành vi đánh bạc dưới hình thức mua bán số lô, số đề với Đinh Thị T và Nguyễn Thị Ch.

Ngày 23/12/2019 Cơ quan điều tra triệu tập Đinh Thị T lên làm việc, tại Cơ quan điều tra Đinh Thị T đã khai nhận hành vi đánh bạc dưới hình thức mua bán số lô, số đề với Đỗ Thị L vào ngày 21/12/2019 đồng thời khai nhận khi biết L bị công an bắt giữ T đã xóa hết tin nhắn trong điện thoại di động rồi vứt ở cạnh thùng xốp gần nhà dân ở khu vực đường Đinh Điền, phố Tr Th, phường N Kh cách cổng Công an thành phố N B khoảng 300 mét. Căn cứ lời khai của T, Cơ quan điều tra đã tiến hành rà soát truy tìm vật chứng. Đến ngày 23/12/2019 bà Nguyễn Thị V sinh năm 1974 trú tại số nhà 02 ngõ 156 đường Đinh Điền, phố Trung Thành, phường N Kh, thành phố N B giao nộp cho Cơ quan điều tra 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J5 mầu đồng, bên trong lắp sim số 0855.815.262 và khai báo đây là điện thoại bà nhặt được cạnh thùng rác bên hông nhà. Đinh Thị T thừa nhận đây chính là chiếc điện thoại của mình sử dụng để gửi tin nhắn đánh bạc dưới hình thức mua bán các số lô, số đề với Đỗ Thị L vào ngày 21/12/2019.

Ngày 29/12/2019 Cơ quan điều tra triệu tập Nguyễn Thị Ch lên làm việc, tại Cơ quan điều tra Nguyễn Thị Ch đã khai nhận ngày 21/12/2019 có sử dụng điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1280 lắp sim số 0911.562.043 để đánh bạc dưới hình thức mua bán số lô, số đề với Đỗ Thị L đồng thời khai nhận sau khi biết L bị công an bắt giữ, Ch đã xóa hết tin nhắn rồi vất điện thoại đi nhưng không nhớ rõ vất ở khu vực nào nên Cơ quan điều tra không thu giữ được.

Tại bản cáo trạng số 98/CT-VKS ngày 15/6/2020 Viện kiểm sát nhân dân thành phố N B truy tố các bị cáo Đỗ Thị L, Đinh Thị T, Nguyễn Thị Ch về tội “Đánh bạc”. Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo Đinh Thị T, Nguyễn Thị Ch .

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Đỗ Thị L.

Tại phiên tòa các bị cáo L, Ch và T đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của các bị cáo Đỗ Thị L, Nguyễn Thị Ch, Đinh Thị T đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc”. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Ninh Bình đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng:

1. Về hình phạt:

- Áp dụng điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 321, điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Đỗ Thị L từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 06/3/2020. Phạt tiền là hình phạt bổ sung đối với bị cáo từ 12.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng.

- Áp dụng khoản 1, khoản 3 điều 321, điểm s khoản 1 điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52; khoản 2 Điều 56 BLHS đối với bị cáo Nguyễn Thị Ch. Xử phạt bị cáo Ch từ 09 tháng tù đến 12 tháng tù, tổng hợp hình phạt 09 tháng tù tại bản án số 129/2018 ngày 15/11/2018 của Tòa án nhân dân thành phố N B, buộc bị cáo Nguyễn Thị Ch phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án từ 18 tháng tù đến 21 tháng tù, thời hạn tính từ ngày bắt tạm giam 27/02/2020. Phạt tiền bị cáo từ 10.000.000 đồng đến 12.000.000 đồng.

- Áp dụng khoản 1, khoản 3 điều 321; điều 36; điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51 BLHS đối với bị cáo Đinh Thị T, xử phạt bị cáo Tâm từ 30 tháng đến 36 tháng cải tạo không giam giữ. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân phường Thanh Bình, thành phố N B giám sát, giáo dục. Gia đình có trách nhiệm phối hợp với ủy ban nhân dân phường Th B trong việc giám sát, giáo dục. Khấu trừ từ 5% đến 7% thu nhập hàng tháng để sung ngân sách Nhà nước. Thời hạn tính từ ngày UBND phường Th B nhận được bản sao bản án và Quyết định thi hành án.Phạt tiền bổ sung từ 12.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng.

2. Xử lý vật chứng : Áp dụng Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS:

- Tịch thu xung quỹ nhà nước 02 chiếc điện thoại di động thu giữ của các bị cáo Đinh Thị T, Đỗ Thị L là phương tiện dùng để phạm tội nên tịch thu sung quỹ Nhà nước.

- Biện pháp tư pháp: buộc bị cáo Đỗ Thị L phải nộp lại số tiền 28.460.000 đồng; bị cáo Nguyễn Thị Ch phải nộp lại số tiền 7.424.000 đồng. Bị cáo Đinh Thị T phải nộp lại số tiền 14.400.000 đồng sử dụng vào đánh bạc, bị cáo đã tự nguyện nộp 1.000.000 đồng, còn phải tiếp tục nộp 13.400.000đồng.

Các bị cáo phải nộp án phí hình sự theo quy định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự , Nghị quyết 326 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa Kiểm sát viên, những người tham gia tố tụng không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Các bị cáo không tranh luận gì với lời luận tội của Kiểm sát viên.

Lời nói sau cùng các bị cáo Liên, Chè, Tâm đều đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Ninh Bình, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Ninh Bình, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa là khách quan, phù hợp với biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang, phù hợp với lời khai của từng bị cáo trong quá trình điều tra, biên bản kiểm tra điện thoại và vật chứng thu giữ là 02 chiếc điện thoại di động của các bị cáo Đỗ Thị L và Đinh Thị T mà các bị cáo dùng vào việc nhắn tin số lô, số đề và số tiền đặt mua các cặp lô, đề với nhau; cùng các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Đã có đủ cơ sở kết luận: Chiều ngày 21/12/2019 trên địa bàn thành phố N B tỉnh N B. Đinh Thị T và Đỗ Thị L có hành vi đánh bạc dưới hình thức ghi và nhận các số lô, số đề với số tiền sử dụng vào việc đánh bạc là 36.010.000 đồng. Nguyễn Thị Ch và Đỗ Thị L có hành vi đánh bạc dưới hình thức ghi và nhận các số lô, số đề với số tiền sử dụng vào việc đánh bạc là 14.247.000 đồng. Tổng số tiền Đỗ Thị L sử dụng đánh bạc với Đinh Thị T và Nguyễn Thị Ch là 50.284.000 đồng. Như vậy, có đủ căn cứ kết luận hành vi của các bị cáo Đỗ Thị L, Nguyễn Thị Ch, Đinh Thị T đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc”.Tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 321 Bộ luật hình sự như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N B đã truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Đánh giá tính chất, hành vi và mức độ phạm tội của các bị cáo cho thấy: Các bị cáo đều có quan hệ bạn bè, quen biết nhau.Tuy không có sự bàn bạc, thống nhất từ trước trong việc sử dụng tin nhắn để mua số lô, số đề như nào, nhưng khi một bị cáo sử dụng điện thoại di động nhắn tin các số lô, số đề cho bị cáo khác thì đã nhận được sự đồng ý ngay. Các bị cáo được phân hóa vai trò phạm tội bằng số tiền sử dụng để mua số lô, số đề và số tiền trúng thưởng. Cụ thể :

Bị cáo Đỗ Thị L: từ hành vi đánh bạc dưới hình thức đánh “ Phỏm” cơ quan điều tra thu giữ điện thoại của bị cáo và phát hiện ra các tin nhắn đánh bạc của bị cáo với các bị cáo khác trong vụ án ngày 21/12/2020. Bị cáo đã qua các tin nhắn văn bản trên điện thoại di động vừa nhận, vừa chuyển các số lô, số đề giữa bị cáo với bị cáo Nguyễn Thị Ch và giữa bị cáo Đỗ Thị L với bị cáo Đinh Thị T. Tổng số tiền bị cáo L mua các số lô, số đề của Tâm là 21.610.000 đồng và trúng lô là 14.400.000 đồng. Bị cáo L đã sử dụng 36.010.000 đồng vào việc đánh bạc cùng bị cáo Tâm.

Ngoài ra bị cáo còn bán số lô, số đề cho bị cáo Ch với số tiền là 4.224.000 đồng, bị cáo trúng thưởng 2.640.000 đồng. Liên cũng mua lại của bị cáo Chè 4.210.000 đồng tiền số lô, số đề và trúng thưởng 3.200.000 đồng. Như vậy, tổng số tiền bị cáo dùng để đánh bạc với bị cáo Nguyễn Thị Ch và Đinh Thị T là 50.284.000 đồng. Do vậy, bị cáo có vai trò đầu vụ và phải xử lý bị cáo nghiêm minh, tương xứng với mức độ và hành vi phạm tội để răn đe, giáo dục không lặp lại các hành vi tương tự.

Đối với các bị cáo Nguyễn Thị Ch và Đinh Thị T, là những người đang trong độ tuổi lao động nhưng các bị cáo lại không chịu là ăn lương thiện, thấy việc đánh số lô, số đề dễ kiếm tiền nên đã hám lời. Các bị cáo đã nhận bán số lô, số đề cho bị cáo Đỗ Thị L, bị cáo Đinh Thị T không mua lô, đề của bị cáo Đỗ Thị L như bị cáo Nguyễn Thị Ch, nhưng số tiền bị cáo Ch đánh bạc cùng với L ít hơn số tiền bị cáo L đánh bạc với T, số tiền các bị cáo đánh bạc lại chưa thanh toán với nhau. Do vậy, cần xử lý hai bị cáo này với mức hình phạt tương xứng, bị cáo Nguyễn Thị Ch đang chấp hành thời gian thử thách của án treo mà lại phạm tội mới là thể hiện ý thức coi thường pháp luật và không chịu cải tạo. Do vậy, bị cáo phải bị tổng hợp hình phạt của bản án này với hình phạt của bản án số 129/2018 ngày 15/11/2018 của Tòa án nhân dân thành phố N B.

Về thủ đoạn, động cơ, mục đích phạm tội: các bị cáo thực hiện hành vi đánh bạc dưới hình thức mua bán số lô, số đề qua tin nhắn văn bản trên điện thoại di động với mục đích là kiếm lợi nhuận cho bản thân. Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự trị an xã hội, mà trực tiếp xâm phạm đến trật tự, nếp sống văn minh của xã hội vì cờ bạc là tệ nạn của xã hội. Gây thất thoát cho nguồn thu của ngân sách Nhà nước. Các bị cáo đều là người có đầy đủ năng lực hành vi, trách nhiệm hình sự và trong độ tuổi lao động, có công việc ổn định, nhưng không chịu làm ăn chân chính, thấy việc đánh bạc may rủi có thể đem lại thu nhập mà không cần lao động nên đã thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, cần xử lý các bị cáo nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung cho xã hội và các hành vi tương tự. Khi lượng hình có xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo:

Về tình tiết tăng nặng: bị cáo Nguyễn Thị Ch đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội do cố ý là tái phạm. Do vậy áp dụng điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo này.

Về tình tiết giảm nhẹ: Các bị cáo Đỗ Thị L, Nguyễn Thị Ch, Đinh Thị T trong quá trình điều tra và tại phiên tòa đều khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải nên được xem xét áp dụng cho các bị cáo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo Đinh Thị T được xem xét tuổi cũng khá cao (57 tuổi), bị cáo có mẹ đẻ là mẹ Việt Nam anh hùng, gia đình có người có công với cách mạng, bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, không có chồng, con; lại đang điều trị bệnh tim. Bị cáo Nguyễn Thị Ch có hoàn cảnh khó khăn: con trai đang thi hành án trong trại giam, chồng đã ly hôn, bản thân bị cáo đang bị bệnh tiểu đường; bị cáo Đỗ Thị L sức khỏe yếu, cũng đang điều trị bệnh tiểu đường. Do vậy, áp dụng khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo Đỗ Thị L, Nguyễn Thị Ch và Đinh Thị T là phù hợp.

Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 3 Điều 321 của Bộ luật hình sự quy định “ … người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng…”; do đó đối với các bị cáo Đỗ Thị L, Nguyễn Thị Ch và Đinh Thị T ngoài hình phạt chính cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo này với mức phạt từ 10.000.000 đồng đến 12.000.000 đồng để nộp ngân sách Nhà nước;

[4]Về xử lý vật chứng : áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J7 thu giữ của Đỗ Thị L và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J5 thu giữ của Đinh Thị T đều là công cụ các bị cáo thực hiện tội phạm nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước. Đối với 01 điện thoại di động hiệu Nokia 1280 lắp sim số 0911.562.043 của Nguyễn Thị Ch, bị cáo khai chiếc điện thoại này bị cáo nhận, gửi các tin nhắn mua, bán số lô, số đề cùng Đỗ Thị L, nhưng khi biết L bị công an bắt giữ, Ch đã xóa hết tin nhắn rồi vất điện thoại đi nhưng không nhớ rõ vất ở khu vực nào nên Cơ quan điều tra không thu giữ được.

[5] Các biện pháp tư pháp: áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, tịch thu sung Ngân sách nhà nước số tiền các bị cáo đã bỏ ra để mua số lô, số đề và số tiền trúng thưởng của các cặp số lô, số đề đã mua.

[6] Các bị cáo phải nộp án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Các bị cáo được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

1.Căn cứ:

- Khoản 2, khoản 3 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Đỗ Thị L.

- Khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Nguyễn Thị Ch và Đinh Thị T. Bị cáo Nguyễn Thị Ch áp dụng thêm điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 55, 56 và khoản 5 Điều 65 Bộ luật hình sự. Bị cáo Đinh Thị T áp dụng thêm Điều 36 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố các bị cáo Đỗ Thị L, Đinh Thị T, Nguyễn Thị Ch phạm tội “Đánh bạc”.

Xử phạt: bị cáo Đỗ Thị L 36 (ba sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam bị cáo 06/3/2020. Phạt bổ sung bị cáo 10.000.000 đồng ( mười triệu đồng) để sung quỹ nhà nước.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Ch 07 ( bảy) tháng tù, tổng hợp với hình phạt 09 tháng án tù của bản án số 129/2018 ngày 15/11/2018 của Tòa án nhân dân thành phố N B. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là 16 (mười sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 27/02/2020. Phạt tiền là hình phạt bổ sung đối với bị cáo 10.000.000 đồng ( mười triệu đồng) để sung quỹ Nhà nước.

Xử phạt bị cáo Đinh Thị T 30 (ba mươi) tháng cải tạo không giam giữ Thời hạn cải tạo không giam giữ đối với bị cáo tính từ ngày UBND phường Thanh Bình thành phố N B nhận được quyết định thi hành án và bản án. Giao bị cáo cho UBND phường Th B, thành phố N B nơi bị cáo cư trú để giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành án. Gia đình bị cáo T có trách nhiệm phối hợp với UBND phường Th B, thành phố N B trong việc giám sát giáo dục bị cáo. Trong thời gian chấp hành án, hàng tháng bị cáo Đinh Thị T bị khấu trừ thu nhập là 05% để sung công quỹ Nhà nước.

Phạt bổ sung bị cáo Đinh Thị T 12.000.000 đồng (Mười hai triệu đồng) để sung quỹ Nhà nước.

2. Xử lý vật chứng và áp dụng biện pháp tư pháp khác:Áp dụng Điều 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS:

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước 02 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy thu của bị cáo Đỗ Thị L và Đinh Thị T (Chi tiết theo biên bản giao nhận vật chứng giữa cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố N B và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Ninh Bình ngày 23/6/2020).

- Buộc các bị cáo phải nộp lại số tiền dùng đánh bạc để sung quỹ Nhà nước gồm : bị cáo Đỗ Thị L phải nộp lại số tiền 28.460.000 đồng; bị cáo Nguyễn Thị Ch phải nộp lại số tiền 7.424.000 đồng; bị cáo Đinh Thị T phải nộp lại số tiền 14.400.000 đồng được trừ số tiền 1.000.000 đồng bị cáo đã tự nguyện nộp, còn lại bị cáo phải tiếp tục nộp số tiền 13.400.000 đồng.

3. Án phí hình sự sơ thẩm: áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án buộc các bị cáo Đỗ Thị L, Nguyễn Thị Ch, Đinh Thị T, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng.

5. Quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7,7a,9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

227
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 116/2020/HS-ST ngày 06/08/2020 về tội đánh bạc

Số hiệu:116/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Ninh Bình - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;